Công Phu Xét Tuyển Trong Quỹ Học Bổng Ra Sao?

Thế là Quỹ Học Bổng: Nâng Đỡ Học Sinh Nghèo Học Tốt Krong Bong, Dak Lak vừa trao học bổng cho tổng cộng 44 học sinh hoàn cảnh khó khăn mà học tốt vào tháng 3/2021. Hiện tại, ban tổ chức đang chờ các em viết thư cảm ơn.

Chúng con xin giải trình quý ân nhân cách ban tổ chức xét tuyển để chọn ra những em hoàn cảnh khó khăn nhất nhưng nỗ lực vươn lên để học tốt nhất, xứng đáng nhất nhận học bổng. Chúng con ứng ụng phần nào cách xét tuyển của Đại học Hoa Kỳ vào xét tuyển cho các em. Chúng con xét tuyển qua 5 vòng.
Trước hết, các em cần nộp các hồ sơ:
1. Chỉ những em được ban tổ chức, giáo viên hay người làm việc trong trường đề cử mới được nộp đơn xét tuyển. Điều này cũng tương đương với letters of recommendation (thư giới thiệu do giáo viên/giáo sư/lãnh đạo công ty viết cho người nộp đơn Đại học/sau Đại học Hoa Kỳ).
2. Nộp bảng điểm học tập học kì/năm học kế trước đó.
3. Viết thư theo mẫu trình bày hai phần. Phần một là thông tin cá nhân, gồm tên, đang học lớp nào ai là giáo viên chủ nhiệm, đang ở địa chỉ nào, email và số điện thoại (của em hay người nuôi dưỡng), có kèm ảnh đứng trước căn nhà và ảnh nhìn rõ mặt. Phần hai gồm ba yêu cầu: hoàn cảnh khó khăn ra sao, nỗ lực vươn lên thế nào, và ước mơ trong tương lai. Thư dài khoảng 4 trang, font 12 đánh máy word.
Hồ sơ nộp về cho một người nhận. Người này sẽ thông tin em ấy cần bổ sung hồ sơ nếu thiếu.
VÒNG 1: Dùng tài năng cá nhân độc lập của người bên ngoài đánh giá năng lực các em.
Cứ mỗi khi có đủ 10 em nộp 10 hồ sơ đầy đủ giấy tờ thì người nhận đơn làm thành một nhóm (group) gửi đi đến một người xét tuyển. Người xét tuyển là người bên ngoài (outsider) của hệ thống, tức là không biết gì về các em học sinh ấy. Lý do là cần tránh tình cảm yêu ghét thiên vị với các em. Vòng này những người xét tuyển không biết về nhau. Thực tế, những người xét tuyển lần vừa qua ở Paris, London…hoàn toàn không biết gì về các em học sinh ở huyện Krong Bong, Dak Lak. Mỗi người xét chỉ mười hồ sơ để đảm bảo sự độc lập tư duy. Tiêu chí xét tuyển là căn cứ bảng điểm và thư viết các em để lập ra một danh sách thứ tự (ranking) từ em xứng đáng nhất ở vị trí 1 đến em ít xứng đáng nhất ở vị trí cuối cùng. Nếu không phân định được hai, ba hay nhiều em vì đều xứng đáng thì để các em ấy cùng thứ bậc (thí dụ có thể có ba em cùng vị trí thứ 5). Xong rồi viết lý do vì sao chọn từng em ở vị trí ấy.
Người xét tuyển vòng này, cũng như tất cả các vòng khác, đều tối thiểu có bằng Đại học. Thực tế, trong lần xét tuyển năm 2020-2021 này thì đa số người xét tuyển vòng 1 này có học/làm tiến sĩ hay cao học ở Bắc Mỹ, Tây Âu, và Đông Á, những nơi có nền giáo dục tốt nhất nhân loại.
Lý do cần người có năng lực xét tuyển: vì xét tuyển kểu này có thể có sự chủ quan nên cần người có năng lực xét tuyển. Thí dụ lần năm trước, 2020, thì em Vi hoàn cảnh khó khăn và được học sinh giỏi. Em xứng đáng với học bổng loại 2. Em Châu thì hoàn cảnh rất khó khăn và bệnh phải mổ 5 lần mà vẫn được học sinh khá/tiên tiến. Tuy Châu không được học sinh giỏi nhưng nỗ lực vươn lên trong bệnh nặng làm ban tổ chức chọn. Điều này có nghĩa là chỉ căn cứ bảng điểm không thôi sẽ không đủ dữ liệu để đánh giá. Cần căn cứ bảng điểm và thư các em viết thì xác xuất chọn ra tài năng cao hơn.
Lý do chỉ một người xét một nhóm mười em: nếu để một người xét hết toàn bộ các em thì người này sẽ mệt mỏi hay khối lượng công việc lớn sẽ làm người này quá bận rộn nên xét không đủ khách quan. Có thể xét qua loa cho xong vì qúa tải. 10 em/một người xét tuyển là được. Hơn nữa, vì lý do gì mà người này xét tuyển không chuẩn thì quỹ chỉ bị tổn thương 10 em, không phải tất cả. “Không nên bỏ hết trứng vào một rổ.”
Thực tế thì vòng 1 vừa qua ban tổ chức có 10 người xét tuyển và nhóm này trước đã đồng ý giúp xét tuyển. Nếu sau khi gửi hồ sơ đi với tin nhắn xin hồi âm ngắn gọn để biết nhận mà người xét tuyển không hồi âm hay sau 1 tuần không hồi âm thì ban tổ chức liền gửi gói hồ sơ ấy đến người xét tuyển thứ hai nhờ xét tuyển. Lý do có thể người đầu này muốn giúp nhưng bận. Nếu cứ hỏi han hối thúc thì họ có thể xét tuyển vội vàng qua loa thì sẽ không tối ưu. Tốt hơn nên lặng lẽ gửi đi cho người thứ hai xét tuyển. Nếu đến hạn chót mà cả hai cùng gửi danh sách xét tuyển thì càng tốt. Quỹ lần này chỉ có 49 hồ sơ mà có 10 người xét tuyển vòng 1. Quỹ chuẩn bị nếu vì lý do nào mà 50% người xét tuyển không xét được thì vẫn đủ người giúp xét tuyển. (Làm tình nguyện nên không thể bắt buộc được).
VÒNG 2:
Nếu vòng 1 là tài năng cá nhân thì vòng 2 là tài năng tập thể. Một nhóm cùng nhau xét tuyển cho vòng 2 này. Việc cần làm là:
Đề xuất lần trao học bổng này nên trao bao nhiêu suất cho học bổng Loại 1. Nêu lý do vì sao.
Đề xuất nên đưa bao nhiêu em nhận học bổng học bổng Loại 2. Nêu lý do.
Thẩm định lại những thứ tự xếp hạng vòng 1 có chính xác không? Nếu cần thay đổi thì phải viết ra lý do. Thí dụ cần đưa em học sinh thứ 3 lên thứ 2 từ nhóm xét tuyển nào đó vì lý do A nào đó phải ghi ra.
Lập ra danh sách thứ tự ưu tiên tất cả các em xứng đáng nhận nhất từ vị trí 1 đến vị trí cuối cấp học bổng. Lập thêm 10 hồ sư dự bị (waiting list).
Nếu có tranh luận có vẻ diễn ra gay gắt thì tìm cách dung hoà, thương lượng.
Nếu không thương lượng được vấn đề nào đó thì, thay vì tiếp tục tranh cãi mất hoà khí, hãy để chủ đề ấy lên vòng 3 xét duyệt. Những việc khác cứ giải quyết.
Đảm bảo đủ số lượng người xét tuyển để khi nếu 50% người xét vòng 2 vì lý do nào đó không tham dự xét tuyển được thì vẫn đủ số người xét tuyển tập thể mà không phải cá nhân. Nghĩa là tối thiểu nhân sự cho vòng 2 là 4 người.
Vòng 2 cử tối thiểu một người, không giới hạn tối đa, đại diện trình bày/giải trình cho vòng xét tuyển thứ 3.
VÒNG 3
´ Ở vòng 3, tối thiểu một đại diện vòng 2 giải trình với một nhóm người mà trong đó có tối thiểu một người hiểu rõ về quỹ học bổng hay hiểu rõ về trường THPT Krong Bong. Người này là insider, người trong hệ thống. Người từ vòng 2 sẽ đưa ra những vấn đề chưa giải quyết được để nhờ vòng 3 giải quyết. Rồi người vòng 2 này đề xuất lần này nên cấp cho bao nhiêu em nhận học bổng Loại 1, bao nhiêu em Loại 2 và nêu lý do. Người này cũng nêu lý do nếu có thay đổi thứ tự (ranking) từ vòng 1. Rồi người này trình bày về một danh sách thứ tự các em xứng đáng nhận học bổng Loại 1 (và có thể Loại 2, Loại 3) lần này và giải thích vì sao chọn như vậy.
´ Sau khi lắng nghe, một số người ở vòng 3 này trao đổi lại với người vòng 2. Thí dụ họ không đồng ý về việc thay đổi ranking của một vài vị trí và phải đưa ra lý do thoả đáng. Việc này để tạo sự hiệu quả đề phòng vòng 2 thay đổi/đề xuất đưa ra những xếp hang chưa hợp lý. Hơn nữa, người vòng 3 này có thể cung cấp những hiểu biết khác với tư cách là người bên trong. Thí dụ, một người có thể lên tiếng rằng thấy em học sinh A có tên trong danh sách đề cử nhưng em đã vừa nhận học bổng của quỹ học bổng B nên cần coi lại có nên tang tiền cho em này không? Nếu hoàn cảnh quá khó thì cho nhận, nếu không đến nỗi quá khó thì thôi, ưu tiên cho em ở trong danh sách chờ (waiting list).
´ Ở vòng 3, có sự phối hợp giữa người bên ngoài (outsider) và người bên trong (insider).
´ Vòng này cũng thảo luận có chấp nhận đề xuất chi bao nhiêu cho lần này hay không. Có sự khác nhau giữa quan điểm chi số tiền từ những người xét tuyển và người giữ tài chính. Rồi thương lượng. Rồi chốt số tài chính và danh sách các em sẽ nhận học bổng.
´ Vì tài chính là quan trọng và liên quan đến đạo đức lẫn pháp luật nên quỹ không để một cái nhân quyết định mà nguyên tắc là “hơn một cá nhân quyết định trong hơn một vòng về tài chính.” Thực tế, vòng 2 đã có một nhóm bàn về tài chính cần chi, đến vòng 3 lại một nhóm khác bàn tiếp.
Vòng 4
´ Ở 3 vòng trước, những người xét tuyển dựa trên tiền đề rằng các em học sinh viết đơn đều đúng sự thật với hoàn cảnh khó khăn của em.
´ Vòng 4 là đi thực tế tận nhà các em. Ban tổ chức cử một số người đi từng nhà các em xem thử có đúng như thư các em viết hay không. Nếu đúng 80% hay hơn thì chấp nhận cho em ấy nhận học bổng. Nếu không đúng như thế thì ban tổ chức sẽ đưa một em trong danh sách chờ (waiting list) vào thay và ban tổ chức sẽ đi đến nhà em xem em có viết giống 80% hay hơn. Và cứ như thế cho đến khi đủ số lượng học sinh nhận học bổng.
´ Sau khi đã có danh sách từ vòng 4, ban tổ chức thông tin đến các em học sinh thời gian nhận học bổng. Ban tổ chức trao học bổng cho các em. Sau đó các em viết thư cảm ơn trong thư ghi rõ số tiền nhận được cùng thông tin cá nhân như số điện thoại/email để quý ân nhân có thể kiểm tra xem các em có nhận đúng số tiền ấy không. Hoàn toàn minh bạch tài chính. Minh bạch tài chính là việc của bài khác, không phải bài viết này.
Vòng 5: Xét về đạo đức. Vòng này tiến hành song song và độc lập thời gian với vòng 4. Các em phải có đạo đức khá tốt thì mới xứng đáng nhận học bổng. Khi nhận đơn, quỹ mặc định các em phải có đạo đức khá/tốt thông qua hạnh kiểm tốt được ghi trong bảng điểm. Nhưng từ khi nộp đơn đến khi có kết quả các em có thể nhận học bổng thì đã một thời gian trôi qua (vài tuần đến 1-2 tháng) nên trong thời gian này nếu em nào có biểu hiện kém về đạo đức thì sao? Thí dụ chửi đánh thầy cô hay ngoan ngoãn với thầy cô nhưng chửi thành viên của nhà trường (thí dụ thành viên đoàn trường) thì cũng không được nhận học bổng. Vì thế, ban tổ chức liên hệ với đoàn trường để rà soát tác phong đạo đức của các em thí dụ đoàn trường gửi email hỏi nhiều thầy cô và lớp trưởng về tác phong đạo đức của các em này.
Vòng 4 cũng có đánh giá phần nào về đạo đức như hỏi về em học sinh ấy với các thành viên trong gia đình hay hàng xóm.
Sau khi xét hết như thế, sẽ trao học bổng cho các em.
So sánh với cách xét tuyển Đại học Mỹ, ta thấy:
1. Hoa Kỳ tuyển những học sinh có đủ trí dục (điểm cao là thí dụ), đức dục (có những hoạt động xã hội giúp người, con vật, môi trường…) và thể dục (khá giỏi môn thể thao nào là một lợi thế). Quỹ chúng ta có xét về trí dục và đức dục, nhưng lờ đi về thể dục. Lý do là vì các em nghèo nên các em thường phải lao động tay chân vất vả thí dụ hái cà phê, cày ruộng…hay chí ít cùng làm việc nhà như nấu cơm, cắt cỏ cho bò…nên các em có tạm đủ sức khoẻ thể chất.
2. Đại học Hoa Kỳ có kì thi chuẩn hoá (standardized test) thí dụ SAT hay GRE/GMAT, nhưng quỹ chúng ta không có. Kì thi chuẩn hoá nhằm đánh giá tất cả các em học từ các trường khác nhau. Thí dụ một em học với GPA (điểm trung bình) 3.7 ở một trường Ấn Độ sẽ có thể có năng lực khác với một em có cùng GPA ở Anh Quốc. Vì thế, số điểm của kì thi chuẩn hoá phần nào cho biết về năng lực của các em cùng GPA hay cùng một số đặc điểm khác nhau. Quỹ chúng ta thì chỉ xét hiện tại cho các em ở cùng một huyện với những đặc điểm khá giống nhau (thực tế thì các em được xét lần này chỉ cùng một trường với cùng các kì thi đánh giá) nên việc có thêm một kì thi chuẩn hoá là không cần thiết.
3. Dù có thể có phỏng vấn ứng cử viên, Đại học Hoa Kỳ không cử người đi đến tận nhà để hỏi chuyện em học sinh đó và/hoặc hỏi chuyện người thân và/hoặc hàng xóm, người trong thôn xã. Cách làm của quỹ chúng ta bài bản hơn ở mặt này vì chúng ta đến nói chuyện với các em cũng như là phỏng vấn rồi.
Quý ân nhân tặng tài chính cho quỹ thân mến! Trên chúng con đã trình bày về sự hàn lâm, công phu, và công bằng trong xét tuyển để chọn ra những mầm non tốt nhất cho các em và cho huyện nhà. Vậy ai là những người đã tham gia xét tuyển?
Chúng con xin công bố những người đã tham gia xét tuyển. Chúng con chỉ công bố thông tin cá nhân của người đó mà xin không công bố những việc những cá nhân ấy làm trong xét tuyển. Những người có tham gia xét tuyển:
Đã/đang có kinh nghiệm nghiên cứu sinh tiến sĩ:
Pháp:
1. Nguyễn Thị Thuý Nga
2. Huyền Trang
Hàn Quốc:
3. Tụê Nhật
Đã/đang có kinh nghiệm cao học:
Việt Nam:
4. Hà Nội: Hưng Anh Lê
5. Mai Hoàng
6. Sài Gòn: Nguyễn Trang
7. Thu Thảo
Hoa Kỳ:
8. Pháp Cẩn
Đại Học:
Anh:
9. Mai Oanh Hoang, luật sư London
Việt Nam:
10. Nguyễn Thị Hồng Phương, cử nhân kinh tế Singapore
11. Nguyễn Thị Sương, cử nhân lịch sử Đại học Đà Nẵng.
Tổng cộng có 11 người tham gia xét tuyển trong tổng số 20 người sẵn sàng xét tuyển.
Đi thực tế. Năm này gồm 5 người:
Thị trấn Krong Kmar: bé Hường và bạn Bùi Trường Thuỷ
Hướng ra huyện Krong Pak: bé Bảy
Hướng ra huyện Lak: chú Xuân
Hướng vào Yang Mao: cô Chung
Rà soát đạo đức tác phong: thầy Tùng làm trong đoàn trường.
Chúng con xin trân trọng cảm ơn tất cả thành viên ban tổ chức và ban xét tuyển trên đã vất vả cùng làm việc nhóm với nhau để tạo ra một cuộc xét tuyển bài bản để chọn đúng người xứng đáng nhất mà trao đi số tài chính.
Phản biện/ý kiến trái chiều: có ý kiến trái chiều là tại sao chỉ tặng có 1 triệu đồng/học sinh mà lại phải xét tuyển quá nhiều vòng, đến 5 vòng, tại sao lại “hành hạ” học sinh đến thế?
Sự phản hồi dựa trên việc chưa tư duy về tiền bạc và tư duy về tiền bạc.
Chưa tư duy về tiền bạc: chúng ta cần làm cho trọn một quy trình cho chu đáo và sâu sắc. Vì thế, dù có phải huy động đến 20 người xét tuyển cộng với 5 người đi thực tế và một thành viên đoàn trường là 26 để xét cho 49 học sinh nộp đơn chúng con vẫn làm. Chúng ta hãy làm với tất cả sự tận tâm, thương yêu, khách quan và lý tính mới hy vọng chọn đúng tài năng của quê nhà mà trao đúng người.
Tư duy về tiền bạc: câu trả lời là các em học sinh chỉ nộp đơn học bổng. Nếu được nhận thì sẽ lên nhận và viết thư cảm ơn thôi chứ không làm gì hơn nên không có gì vất vả cho các em. Tuy mỗi em được nhận 1 triệu, số tiền ít ỏi trong khả năng của người có tài chính, nhưng số tiền này đủ để nộp học phí một năm học của các em! Đối với những em nghèo khó thì được có tiền nộp học phí trọn năm là niềm vui và hạnh phúc lớn. Một vấn đề nữa, tổng số các em được nhận học bổng lần rồi là 44 học sinh, tức 44 triệu của quý ân nhân đã trao đi. Đây là con số lớn chứ không phải ít. Hơn nữa, một năm chúng ta trao hai lần nên tính ra mỗi năm có thể trao lớn hơn con số này. Vì thế, ban tổ chức cần phải cân nhắc chu đáo làm sao để sử dụng số tiền lớn vào đúng mục đích: trao cho những em có tài có đức nhất mà hoàn cảnh khó khăn nhất. Một điều nữa là nếu các em học sinh trong số này đang học lớp 10, 11 nào quá nghèo và học quá tốt thì sẽ được đưa vào Kế Hoạch 3, tức những em ấy có thể nhận đến 5 hay 10 triệu. Hơn nữa, những em trong số này mà đang học lớp 12 chuẩn bị vào Đại học thì có thể được đưa vào Kế Hoạch 2 để quỹ vận động tài chính cho vài chục triệu phụ phần nào vào Đại học năm đầu. Đây là những số tiền lớn nên việc xét tuyển cần phải kỹ lưỡng và hàn lâm.
Nếu quý ân nhân có câu hỏi, góp ý, trao đổi, xin vui lòng liên hệ cô giáo Nguyễn Thị Sương (có dùng viber): +84988444183
Cô Sương đã vất vả thật nhiều vì các em từ quá trình trao đổi với đồng nghiệp trong trường để nhận đề cử, liên hệ nhận đơn nộp, và nhiều việc vất vả khác để giúp các em. Mọi người trong quỹ đều trân trọng tấm lòng cô Sương giúp cho quỹ và giúp cho những mầm non tương lai quê nhà. 
 Xin giới thiệu ảnh là một bạn xét tuyển tên Tuệ Nhật, thành viên ban tổ chức, nghiên cứu sinh tiến sĩ năm 4 ở Đại học Quốc Gia Seoul, Hàn Quốc.
Trên chúng con đã giải trình về cách xét tuyển của Quỹ Học Bổng: Nâng Đỡ Học Sinh Nghèo Học Tốt Krong Bong, Dak Lak trong lần trao học bổng mùa xuân 2021. Quỹ chúng ta rất cần nhận tài chính từ quý ân nhân để giúp nhiều hơn nữa các học sinh đang tài đức vẹn toàn nhưng khó khăn kinh tế. Nếu quý ân nhân thấy đây là việc làm đúng đắn và công phu, phù hợp với tiêu chí và ước vọng của quý ân nhân, xin quý ân nhân hãy giúp tặng tài chính và/hoặc giúp bằng những cách khác.
Mọi đóng góp cho quỹ ở Việt Nam, xin quý vị đóng vào người nhận và giữ: Cô Nguyễn Thị Sương, giáo viên trường THPT Krong Bong.
Số tk 63210000469388
Ngân hàng BIDV
Chi nhánh huyện Krong Bông
Tiêu đề/cú pháp: Tang Quy Hoc Bong
 
Ở nước ngoài, bao gồm ở Mỹ, xin quý ân nhân gửi vào tài khoản thầy Pháp Cẩn (Quang Le):
Zelle: 
Name: Quang Le
Email: phapcancungduong@gmail.com

PayPal:
Name: Quang Le
Email: thayphapcan@gmail.com

Đây là tài khoản Venmo:
Quang Le
@Phapcan

 
Mời quý ân nhân hãy làm thành viên của Group Facebook Quỹ Học Bổng chúng ta (làm thành viên không có nghĩa vụ tặng tiền hằng tháng/năm mà chỉ là tự nguyện).
Xin quý ân nhân hãy chia sẻ (share) đến nhiều người để cùng chung tay làm việc phước thiện này.
Xin trân trọng cảm ơn tất cả.
Pháp Cẩn.
Read More »

Lời Bạt Về Việc Xuất Bản Những Tập Sau Cùng Của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh (từ tập 188 đến tập 203).

                                                                                Thích Như Điển

 

Như tất cả những vị nghiên cứu đều biết rằng Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương, hầu hết được dịch thẳng từ bản chữ Hán của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyo), gồm 32 tập đầu thuộc Kinh, Luật, Luận. Từ tập 33 đến tập 39 gồm 7 tập viết về Kinh Sớ Bộ. Quyển thứ 40 thuộc Luật Sớ Bộ Toàn và Luận Sớ Bộ thứ nhất đến tập thứ 44 và Chư Tông Bộ thứ nhất. Từ quyển 47(chư Tông Bộ thứ tư) đến hết tập thứ 48 (thuộc Chư Tông Bộ thứ 5). Tập 51 (Sử Truyện Bộ 3) đến hết tập 52 (Sử Truyện Bộ 4). Tập 53 (Sự Vựng Bộ Thượng) đến tập 54 (Sự Vựng Bộ Hạ) và ngoại giáo Bộ Toàn. Trên thực tế thì Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh mới chỉ dịch đến Kinh Văn số 2131 (tức phiên dịch danh nghĩa tập gồm 7 quyển) của tập thứ 54 nầy. Đúng ra phải đến Kinh Văn số 2159 của tập thứ 55 mới bắt đầu qua Phật Giáo Nhật Bản (Truyền Giáo Đại Sư Tương Thừa Đài Châu Lục) và phần có liên quan đến Phật Giáo Nhật Bản cho đến tập thứ 84, Kinh Văn số 2731 mới hết. Tập 85 là tập cuối (từ Kinh Văn số 2732 đến Kinh Văn 2920 trở lại các Kinh Truyện thời nhà Đường và các thời khác bên Trung Quốc). Như vậy Kinh Văn chấm dứt của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh là số 2920.

 

Phần tiếp theo là: Biệt quyển Chiêu Hòa Pháp Bảo Tổng Mục Lục, có tất cả là 77 hạng mục và gồm 1.418 trang của 3 quyển, hầu hết là chuyện của Phật Giáo Nhật Bản, Trung Quốc và 12 tập gồm Đồ Tượng cũng như Pháp Bảo. Tổng cộng là: 85 tập+3 tập+12 tập thành 100 tập tất cả. Nhưng trên thực tế thì Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh không cho dịch 4 tập Mật Giáo từ tập 18 đến tập 21 (ngoại trừ bản dịch của Bác Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám về Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm tập 19, Kinh Văn số 945 gồm 10 quyển); nhưng ở Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh thì đưa lên Bộ Kinh Tập. Bộ Mật Giáo gồm 4 tập, bắt đầu từ Kinh Văn số 848 đến Kinh Văn số 1420: Tập thứ 18 từ Kinh Văn số 848 đến Kinh Văn số 917; tập 19 bắt đầu với Kinh Văn số 918 đến Kinh Văn số 1029; tập 20 bắt đầu với Kinh Văn số 1030 đến Kinh Văn số 1198; tập 21 bắt đầu với Kinh Văn số 1199 đến Kinh Văn số 1420. Nếu dịch thêm phần nầy chắc cũng phải tính thêm 16 hay 17 tập nữa. Lý do tại sao Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh không cho dịch 4 bộ Mật Giáo nầy, thì khi còn sanh tiền Ngài đã nói chuyện với chúng tôi và đã rõ ý, nên thiết nghĩ cũng không cần phải ghi vào đây làm gì. Tuy nhiên 4 bộ Mật Giáo nầy Quý Ngài và Quý vị cũng có thể tìm trên những trang mạng điện tử của các trang nhà như: viengiac.info và nhiều trang khác hiện đang lưu hành, do cố Hòa Thượng Thích Viên Đức và hầu hết đều do Cư Sĩ Huyền Thanh dịch theo lối Unicode 2015 sang Việt ngữ. Chỉ còn một số ít chưa được Việt dịch thì dịch giả để chữ màu đỏ. Quý vị nào muốn nghiên cứu đủ một Đại Tạng tiếng Việt thì xin tham khảo thêm phần trên.

 

 Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh được hình thành dưới thời Thiên Hoàng (Tenno) Đại Chánh (Taisho) bắt đầu từ năm Đại Chánh Thứ 13, tức vào năm 1924 đến năm 1925, và năm 1926 thì Thiên Hoàng Đại Chánh băng hà sau khi trị vì Nhật Bản được 14 năm (1912-1926) và Đại Tạng Kinh tiếp tục được hình thành cũng như hoàn tất dưới thời Thiên Hoàng Chiêu Hòa (Showa) năm thứ 9 (1934), có nghĩa là tất cả trong vòng 10 năm. Thiên Hoàng Showa sống cho đến năm 1989, Ông làm vua nước Nhật từ năm 1926 đến năm 1989 gần 63 năm. Đây là một trong những vị Thiên Hoàng trị vì Nhật Bản lâu đời nhất.

Bộ Đại Tạng Đại Chánh nầy chủ yếu dùng phần chánh Kinh Luật Luận từ các nhà Phật Học Trung Quốc, tiếp đến có những soạn thuật của các vị Cao Tăng người Hàn Quốc và Nhật Bản; Học giả Nhật Bản, Ông Cao Nam Thuận Thứ Lang. Độ Biên Hải Túc, Tiểu Dã Huyền Diệu….biên tập dựa trên ba tạng Kinh Luật Luận, cùng bộ phận soạn thuật chủ yếu dùng bản Cao Ly được lưu giữ tại Chùa Tăng Thượng (Sosoji) ở Tokyo làm bản gốc, để đối chiếu khảo xét với bản Tống, Nguyên, Minh cũng được tàng trữ tại chùa nầy. (Tham khảo một phần của đoạn nầy dựa theo tài liệu của Tác Giả Đào Nguyên đăng tải ngày 7 tháng 1 năm 2019 trên trang nhà www giacngo.vn với đề tài là: Góp chút công đức cho Đại Tạng Kinh Việt Nam).

 

Riêng phần tôi, kể từ năm 2003 đến nay, khi trở về ngôi Phương Trượng của Tổ Đình Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, đã phát nguyện rằng, những ngày còn lại trong đời sẽ cố gắng đọc Đại Tạng Kinh nầy. Và 17 tập đầu của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh chúng tôi đã đọc xong gồm: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và bộ Bản Sanh. Những tập từ 1 đến 10 tương đối rất hoàn chỉnh, vì những bậc Tôn Túc chứng nghĩa như: Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Đổng Minh, Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ v.v… đều là những học giả của Phật Giáo, do vậy không có gì để nghi ngờ về những phần sai phạm, nếu có. Thế nhưng từ tập thứ 10 đến tập thứ 17 đâu đó vẫn còn nhiều lỗi chính tả. Do vậy đọc đến đâu, tôi sửa bằng bút màu lên trang đó, nếu có chữ sai.

 

Năm 2003 là năm tôi bắt đầu tịnh tu nhập thất trên núi đồi Đa Bảo vùng Campbelttown, gần Sydney; Úc Đại Lợi; nơi Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, bào huynh của tôi sáng lập. Suốt trong vòng 8 năm, mỗi năm 2 đến 3 tháng như thế, Thầy trò chúng tôi ở chỗ nầy và đến năm thứ 9, thứ 10 (2011-2012) dời lên vùng Blue Mountain, cách Sydney chừng 2 tiếng lái xe. Trong 10 năm ấy chúng tôi dịch Kinh, viết sách, và Kinh Văn đầu tiên mà tôi chọn dịch là Kinh số 2087 thuộc Sử Truyện Bộ “Đại Đường Tây Vực Ký” của tập thứ 51 thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Thầy Trò dịch suốt hai tháng như vậy thì xong, đã có nhiều lần ấn tống và tái bản, nhưng vì là lần đầu tiên đi vào Đại Tạng, nên tôi đã dịch sai ý và lời không ít của Ngài Huyền Trang. Do vậy tôi muốn làm sao phải hiệu đính lại một lần cho hoàn hảo để độc giả khỏi trách rằng tôi dịch sai nhiều quá. Việc nầy đáng hổ thẹn biết bao. Thế mà từ năm 2003 đến nay (2021) gần 18 năm như thế vẫn chưa thực hiện được. Sau những năm tháng khác tôi bắt đầu dịch những Kinh Văn số 299, 271, 380, 756 và đặc biệt là tập thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn, tôi dịch hầu như tất cả từ Kinh Văn số 1628 đến Kinh Văn số 1726; ngoại trừ những bộ Luận như Đại Trí Độ Luận, Đại Thừa Khởi Tín Luận đã có cố Hòa Thượng Thích Trung Quán, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu và cố Thượng Tọa Thích Thiện Thông dịch rồi thì tôi không dịch thêm nữa. Những Kinh Văn nầy chưa được giảo chánh lại kỹ; nhưng cũng đã được đưa lên các trang nhà như: quangduc.com ở Úc; hoavouu.com, trang nhà rongmotamhon.net (Mỹ), viengiac.info (Đức) để so sánh đối chiếu với các dịch giả khác, nhằm tạo thêm cách nhìn, cách dịch và cách hiểu của nhiều người đọc và nay mai nếu tôi còn thời gian cũng như sức khỏe sẽ cố gắng hoàn thiện những phần giảo chánh những Kinh Văn nầy.

 

Từ tháng 3 năm 2020 thế giới bị dịch Corona 19. Tất cả đều bị phong tỏa. Do vậy mà suốt một năm qua tôi đã chẳng thể đi đâu, chỉ ở lại Tổ Đình Viên Giác để đọc Đại Tạng Kinh và trong thời gian nầy, từ tháng 3 năm 2020 Phật Tử Minh Đăng Trần Tế Thế, người lo sắp xếp sửa lại những lỗi chính tả của những tập Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh chưa xuất bản (từ tập 188 đến tập 203, gồm 16 tập). Minh Đăng khi tra cứu đến tập 195 (ĐCTTĐTK thuộc tập thứ 53) bộ Sự Vựng từ Kinh Văn thứ 2121, gặp nhiều từ khó hiểu nên mới nhờ tôi đọc và hiệu đính lại dùm. Thế là tôi vào việc ngay, mỗi ngày đọc từ 100 đến 200 trang như thế, kể cả sửa lỗi chính tả và chỗ nào không rõ ý thì phải lần mò theo Kinh Văn để trở về Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh bằng chữ Hán để tìm kiếm. Sau một thời gian chừng 9 tháng thì tôi đã đọc xong lại hết các tập 195 đến tập 202 và Kinh Văn cuối cùng số 2131 (Phiên dịch Danh Nghĩa Tập gồm 7 quyển và nằm giữa chừng tập thứ 54 ở trang 1185 thuộc Đại Chánh Tạng).

 

 Bây giờ tôi còn nhiều thời gian nên muốn giảo chánh lại quyển Đại Đường Tây Vực Ký, như tôi đã đề cập bên trên. Nhờ Phật Tử Minh Đăng tra cứu dùm thì quyển nầy thuộc tập thứ 190 của LSPBĐTK, tương ưng với quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện Bộ, Kinh Văn số 2087. Thế là tôi cũng phải tốn thời gian ít nhất là 2 tháng để xem lại bản dịch cũ của mình vào  năm 2003 và cũng mong rằng năm 2021 nầy sẽ tái bản lại hoàn chỉnh hơn. Sau khi đọc xong Kinh Văn số 2087 thì Phật Tử Minh Đăng nhờ tôi đọc cho hết tập 190 nầy, rồi tập 191, 192, 193 và 194. Khi xem lại toàn bộ LSPBĐTK đã được xuất bản tại Đài Loan thì mới chỉ hình thành được đến tập thứ 187. Còn những tập 188 đến cuối cùng thì chưa ra mắt độc giả. Do vậy tôi phát tâm đọc tiếp tập 188 đến tập 189. Như vậy đã an tâm là tạm hoàn thành trách nhiệm đọc và giảo chánh lại 15 tập tất cả (188-202). Riêng tập 203 là tập cuối cùng thuộc mục lục của Đại Tạng tôi không đọc, vì nghĩ rằng không bị phạm lỗi gì nhiều như 15 tập cuối cùng của LSPBĐTK.

 

Lẽ ra Lời Giới Thiệu của Ban Tổ Chức dịch thuật in ấn, phát hành…Đại Tạng Kinh phải nên cho vào tập 1 hay tập 202 mới đúng, nhưng do sắp xếp của Ban Biên Tập như thế nào đó mà phần Lời Giới Thiệu nầy sắp vào quyển Mục Lục có 256 trang ở tập 203, kể từ trang 51 đến trang 56 độc giả mới có thể đọc được về thành phần Ban chứng nghĩa, Ban phiên dịch Đại Tạng Linh Sơn. Nhiều vị cũng phàn nàn là tại sao Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh không cho ghi tên từng dịch giả một trong mỗi Kinh Văn đã được dịch ra Việt ngữ để người đời sau dễ nhận diện hơn, nhưng nếu chúng ta chịu khó đọc trong Lời Giới Thiệu nầy thì sẽ hiểu rõ hơn. Dẫu sao đi nữa thì việc khởi đi chỉ từ một cá nhân của Hòa Thượng Tịnh Hạnh  từ năm 1994 đến năm 2014, trong vòng 20 năm ấy cố Hòa Thượng giống như con thoi lui tới Việt Nam, Đài Loan, Âu, Mỹ, Úc để mong hoàn thành đại nguyện nầy; nhưng tiếc thay cho đến khi Ngài viên tịch (2015), thì Ngài vẫn chưa được thấy mặt toàn bộ Đại Tạng do Ngài chủ trương, và nay chúng tôi những kẻ hậu học, tử đệ của Ngài quyết tâm hoàn thành tâm nguyện ấy và sau khi hoàn chỉnh mọi khâu, chúng tôi sẽ bắt đầu cho in ấn tại Đài Loan 500 bộ; mỗi bộ 16 tập (từ tập 188 đến tập 203) và khi in những tập nầy chúng tôi cũng mong mỏi chư Tôn Đức Tăng Ni, cũng như quý Đạo hữu Phật tử tiếp tục hỗ trợ bằng cách ấn tống 16 tập hay nhiều lần 16 tập, để sớm hoàn chỉnh bộ Đại Tạng Linh Sơn nầy. Trước đây một số chùa và một số chư Tôn Đức đã phát tâm ấn tống hay đặt trước tịnh tài, thì nay sau khi Hòa Thượng viên tịch quỹ ấy hầu như không còn nữa và Tử Đệ của Linh Sơn phải gây lại quỹ ấn tống khác để hoàn thành bộ Đại Tạng quan trọng nầy. Kính mong chư Tôn Đức Tăng Ni và Quý vị Phật tử hoan hỷ trợ duyên cho.

 

Tại Trung Quốc từ trước thời Ngài Huyền Trang (602-664) những Kinh Văn được các vị Sư Ấn Độ dịch thẳng từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa hay các nhà Phật Học Trung Hoa như Ngài  An Thế Cao, Ngài Đạo An, Ngài Tuệ Viễn v.v… san định ra tiếng Trung Hoa, thuộc về những nhà cựu dịch. Sau khi Ngài Huyền Trang từ Ấn Độ về lại Trung Hoa năm 645 mới bắt đầu cho dịch thẳng những Kinh Văn từ Phạn ngữ sang Hoa ngữ một cách trong sáng hơn. Thời kỳ nầy gọi là tân dịch và mãi về sau cho đến các thời đại trải dài hằng mười mấy thế kỷ của Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, ít nhất là đến năm 1911 khi cuộc cách mạng Tam Dân của Tôn Dật Tiên hình thành, thì Đại Tạng Kinh nầy lại chuyển hướng qua Triều Tiên và Nhật Bản. Nếu nói cho rõ ràng thì một Đại Tạng Kinh Bắc Truyền như vậy phải cần dịch giải, chú thích trên dưới gần 2.000 năm mới hình thành được. Trong khi đó một Đại Tạng Kinh Việt Nam chỉ hình thành trong 20 năm và dĩ nhiên trước đó cũng đã có những bộ Kinh lớn như Đại Bát Nhã do cố Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch, Bộ Hoa Nghiêm, Bộ Đại Bảo Tích, Bộ Đại Bát Niết Bàn v.v… do cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, cùng với nhiều bộ Kinh, Luật, Luận khác nữa của Quý Ngài Đổng Minh, Phước Sơn v.v… đã âm thầm được phiên dịch tại Việt Nam ít nhất là từ 100 đến 200 năm lịch sử trở lại sau nầy. Do vậy Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh là người có duyên may đứng ra khởi xướng và tập hợp tất cả những Kinh, Luật, Luận ấy thành Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. Cho nên việc sai sót khi dịch của những Tăng Ni mới làm quen với việc dịch thuật hay khi đánh máy, khi in ấn v.v… vẫn còn nhiều chỗ sai, thiếu nghĩa v.v… cũng là chuyện đương nhiên. Công việc nầy xin dành lại cho những nhà học Phật đời sau tiếp tục công việc nghiên cứu, bổ túc, sửa đổi ấy. Công đức thật là không nhỏ.

 

Xét ra Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh cũng có lý, khi chỉ cho phiên dịch ra phần Việt ngữ đến Kinh Văn số 2131 của tập 54 thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Điều nầy có nghĩa là dịch được phân nửa Đại Chánh Tạng. Bởi lẽ từ tập 55 đến tập 85 của Đại Tạng Đại Chánh đều biên khảo về Phật Giáo Nhật Bản và một phần nhỏ của Trung Hoa. Có lẽ Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh muốn dành phần sau nầy để đưa vào những văn kiện Văn Học Sử Phật Giáo Việt Nam chăng? Điều nầy cũng hữu lý lắm. Cho nên khi còn sinh tiền Ngài đã đi gom thâu những Kinh sách bằng Việt ngữ hay được dịch ra Việt Ngữ để chờ một ngày nào đó thuận duyên thì cho xuất bản giống như Đại Chánh Tạng đã làm. Nhưng ngày ấy không còn đến với Ngài nữa. Vì Ngài đã ra đi vào ngày 10.4.2015 tại Đài Loan. Thế thọ 81 xuân thu (1934-2015). Bây giờ chính tôi là người tiên phương xin đề nghị nên đưa luận án Tiến Sĩ của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh vào tập 204. Đây cũng là một phần báo ân Ngài đã dày công đối với Phật Giáo Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước. Năm 1969 Ngài đã đến Đài Loan du học và tháng 7 năm 1981 (Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 70) thì Ngài đã trình xong luận án Tiến Sĩ với nhan đề là: Nghiên cứu về Hàn Văn Công (Hàn Dũ) bài bác Đạo Phật. Với Nghiên cứu sinh Lê Quang Liên (Thích Tịnh Hạnh) do sở nghiên cứu Quốc Văn Đại Học Quốc Lập Sư Phạm Đài Loan chủ trương và Giáo Sư Hướng Dẫn là hai vị Giáo Thọ Lâm Doãn cùng Âu Dương Chí đảm nhiệm. Đến tháng 7 năm 2016 thì được dịch giả Nguyễn Thành Sang dịch toàn bộ luận án nầy sang Việt Ngữ. Có cho đăng tải trên trang nhà thuvienhoasen.com qua định dạng Ebook PDF vào ngày 26 tháng 9 năm 2017. Đây là một luận án Tiến Sĩ có tầm cỡ và tôi cũng mong rằng từ nay trở đi tất cả những luận văn, luận án Cao Học hay Tiến Sĩ của Quý Thầy, Cô Việt Nam chúng ta nghiên cứu về Phật Giáo hay những đề tài nào có liên hệ với Phật Giáo, thì cũng nên cho vào phần Tục Tạng của Phật Giáo Việt Nam chúng ta, quả là điều nên làm vậy. Trong đó có những sách vở nghiên cứu của Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Sư Bà Thích Nữ Diệu Không, Sư Bà Thích Nữ Như Thanh, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải….. kể từ tập 204 trở đi và tất cả những ai muốn đóng góp cho việc hình thành một Đại Tạng Việt Nam hoàn chỉnh, thì xin tiến cử hay đích thân thể hiện tinh thần chung nầy, thì chúng ta sẽ sớm có được một Đại Tạng Kinh Bắc Truyền của Việt Nam không thua kém gì các Đại Tạng của Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ, Bhutan v.v…và hy vọng ngày ấy sẽ không xa.

 

Phần còn lại sau cùng là vận động in ấn, phát hành. Phần nầy do Sư Cô Thanh Nghiêm là đệ tử xuất gia của Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đảm trách chung với các Huynh Đệ, Tỷ, Muội trong Đại Gia Đình Phật Giáo Linh Sơn cả Tăng lẫn tục và với sự hỗ trợ nhiệt tình của chư Tôn Đức Tăng Ni cùng Phật Tử Việt Nam khắp nơi trên thế giới, ở trong cũng như ngoài nước. Như vậy chúng ta sẽ hãnh diện được với các nước Phật Giáo láng giềng, là Phật Giáo Việt Nam của chúng ta cũng đã hoàn thành được một bộ Đại Tạng Bắc Truyền hoàn toàn bằng Việt ngữ.

 

Kính nguyện

 

Viết xong lời bạt của việc xuất bản lần nầy tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc vào ngày 30 tháng 1 năm 2021 nhằm ngày 18 tháng 12 năm Canh Tý.

 

 

 

 

 

 

Read More »

Mình Dạy Thiền Ở Graduate Theological Union

Read More »

Morals and Ethics by Dalai Lama

Read More »