Điểm sách: TÂM BẤT SANH Của Bankei Yotaku

 


Điểm sách: TÂM BẤT SANH

Của Bankei Yotaku (Bàn Khuê Vĩnh Trác), do Peter Haskel viết bằng Anh ngữ qua việc tham cứu Nhật ngữ, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ.

 

                                                                Thích Như Điển

 

Lại một quyển sách khác nữa được điểm, để giới thiệu đến với mọi người, nhất là những người ít có thời gian để đọc một quyển sách dày mấy trăm trang, thì đây là một bài giới thiệu tóm tắt về tác giả và tác phẩm.

Sách dày 360 trang, nhưng nếu in hai mặt thì số trang chỉ bằng một nửa mà thôi. Bởi lẽ khi Lotus Media ở Hoa Kỳ tái bản năm 2020 do Uyên Nguyên trình bày, muốn làm cho quyển sách dịch ra Việt ngữ của Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải trang trọng hơn, để tỏ lòng với người đã khuất, cũng như muốn cho độc giả thâm nhập sâu hơn với ngôn ngữ của Thiền, nên mới cho chúng ta nhiều không gian thoáng mát như vậy, để khi đọc và khi gấp sách lại tư duy những lời dạy ngắn gọn, rất dễ hiểu của Thiền Sư Bankei Yotaku một cách sâu sắc hơn nữa.

 

Tôi đã xem tiểu sử của Ngài bằng tiếng Việt, nhưng thấy còn đơn giản quá, nên vào Wikipedia bằng tiếng Nhật để tra cứu thêm thì kết quả như sau: Bankei Yotaku/Eitaku (Bàn Khuê Vĩnh Trác) sinh ngày 8 tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ 8, nhằm ngày 18 tháng 4 năm 1622. Ngài viên tịch vào ngày 3 tháng 9 năm Nguyên Lộc thứ 6 (1693), hưởng thọ 71 tuổi với cái chết của một vị cao Tăng; ngày 4 trà tỳ, ngày 6 thu nhặt xá lợi. Sau đó đem về Chùa Long Môn và Chùa Như Pháp để nhập tháp. Phần xương cốt còn lại phân phối cho các chùa trên toàn quốc do Thiền Sư sáng lập. Năm 1633 Thiền Sư học sáchĐại Học” của Khổng Giáo tại trường làng, muốn làm cho rõ cái nghi vềMinh Đức” là gì, nhưng không ai trả lời được. Năm 1638 nhằm năm Khoan Vĩnh thứ 15, Ngài đến Chùa Tùy Âu gặp Hòa Thượng Vân Phủ để xin làm lễ xuất gia, thọ nhận Pháp húy Vĩnh Trác và từ đó tu hành tại Chùa Tùy Âu. Vào mùa Xuân năm 1647 nhằm năm Chánh Bảo thứ 4, Sư đại ngộ tại cốc ở Giả Trung. Kể từ năm nầy cho đến khi Ngài viên tịch năm 1693, tất cả những gì Sư dạy về Tâm Phật Bất Sanh đều nằm gọn trong sách nầy. Ngài là một vị Thiền Sư của tông Lâm Tế thời đầu của Giang Hộ (Edo). Ngài dạy với những ngôn từ rất dễ hiểu, nên từ những người nổi tiếng cho đến thứ dân đều có thể nắm bắt được ý chính của Phật Pháp. Những người đệ tử quy y có Pháp danh với Ngài, số tính đến trên 50.000 người.

 

Người viết nên quyển sách nầy là Peter Haskel, người Hoa Kỳ đến học ở Nhật Bản vào thời điểm năm 1972. Ông đã học về Thiền Tông tại Đại Học Columbia trước đó 2 năm và vì muốn nghiên cứu về Thiền Tông Nhật Bản, nên Ông đã vô cùng  khó khăn để nắm vững ngữ văn tiếng Nhật. Cuối cùng tác giả bản tiếng Anh nầy đã đến với Giáo Sư cố vấn Yoshito Hakeda.  Giáo Sư Hakeda đã khuyên Peter Haskel là nên cố gắng đọc một ít về Bankei. Cuối cùng Peter Haskel đã thức trắng ba đêm liền để đọc về Bankei, sau đó đến gặp Giáo Sư Hakeda và Giáo Sư Hakeda đã nói với Peter Haskel rằng:Thấy chưa, tôi đã biết Bankei là để dành cho anh mà”. Theo Peter Haskel cho biết, thì tuyển tập giáo lý đầu tiên của Bankei gọi là Bankei Zenji Goroku (Bankei Thiền Sư Ngữ Lục), được ấn hành tại Tokyo vào năm 1942 do Daietz T. Suzuki chủ trương và có viết trong bộ Iwanami bunko, ngày nay phần lớn đã được thay bằng hai ấn bản mới, mà bản dịch nầy đã sử dụng. Đó là Bankei Zenji Zenchu (Daizoshuppan, Tokyo 1970), do học giả Nhật Bản Akao Ryuji ấn hành; và Bankei Zenji hoshoshu (Shunjusha, Tokyo 1971), do Fujimoto Tsuchishige ấn hành. Đây là phần đầu của Peter Haskel viết tại New York vào tháng 9 năm 1983 (trang 15-18). Phần sau ở trang 351-353 Peter Haskel đã viết như sau:Những bài giảng nầy đã được xếp thành hai phần, theo các ấn bản (Nhật ngữ) Akao và Fujimoto, hai tài liệu mà bản dịch nầy căn cứ để dịch. Phần một gồm hai đoạn, đoạn đầu ghi các bài giảng tại Chùa Long Môn vào kỳ đại kết thất năm 1690, đoạn hai là những bài giảng ở Marugame trong cùng một năm ấy. Phần hai gồm những tài liệu rút từ một bản thảo cất giữ tại Chùa Futetsu gần Long Môn tự, do Ryoun Jokan, một nữ sĩ Haiku ghi chép, bà nầy đã trở thành nữ đồ đệ chính của Bankei……”

 

Nói về dịch giả tiếng Việt là cố Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải, có lẽ rất nhiều độc giả đã biết về Ni Trưởng, nhưng ở đây tôi xin tạm viết đôi dòng để tri ân người dịch. Ni Trưởng tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh, sinh năm 1938 và ra đi ngày 7 tháng 12 năm 2003 tại Suối Cát, Đồng Nai. Hưởng thọ 66 tuổi và 33 năm tuổi hạ (Sư Thọ giới Tỳ Kheo Ni năm 1970 tại Giới đàn Vĩnh Gia ở Đà Nẵng). Sư tốt nghiệp Cử nhân Anh văn tại trường Đại Học Sư Phạm Huế, sau đó dạy Anh văn tại trường Trung Học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng. Năm 1960 Ni Trưởng sang Hoa Kỳ du học và tốt nghiệp Cao Học ngành Thư viện tại Đại Học Princeton. Năm 1964 Ni Trưởng xuất gia với Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không; năm 1968 Ni Trưởng được Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh bổ nhiệm làm Thư Viện Trưởng và Giám Đốc Trung Tâm An Sinh Xã Hội của Viện. Ni Trưởng viết và dịch rất nhiều sách, trong đó có những quyển như:Câu chuyện dòng sông” của Hermann Hesse viết với nhan đề là: Shidatta (Der Weg nach Innern=đường vào nội tâm), Ghandi tự truyện, Tâm Bất Sinh, Thanh Tịnh Đạo…rất được nhiều người đọc ưa thích. Ni Trưởng không rành tiếng Đức và tiếng Nhật, nhưng nhờ những tác giả viết bằng tiếng Anh, họ dịch từ tiếng Đức hay tiếng Nhật sang, nên Ni Trưởng đã căn cứ vào tiếng Anh để dịch, do đó rất chuẩn. Riêng bài sám Quy Mạng nghĩa, Ni Trưởng đã dịch theo thể thơ lục bát Việt Nam nên rất dễ đọc tụng; ý tưởng rất rõ ràng, đã nêu lên được tư tưởng vãng sanh về thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà, mà nguyên văn chữ Hán đã được Di Sơn Thiền Sư soạn ra. Ví dụ ở đoạn văn:

“Hỏa hoạch băng hà chi địa, biến tác hương lâm, ẩm đồng thực thiết chi đồ, hóa sanh Tịnh Độ….”

Ni Trưởng Trí Hải dịch là:Rừng thơm hương biến từ sỏi đá, địa ngục bừng khai đóa bạch liên, người trong hỏa ngục hiện tiền, nhờ nương thần lực sanh liền Lạc Bang…” Do vậy Tổ Đình Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, tôi và Tăng Chúng mỗi tuần đều trì tụng một lần bài Sám Quy Mạng nghĩa, do Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải dịch sang Việt Ngữ, trong thời Kinh Lăng Nghiêm, sau khi kinh hành nhiễu Phật và lễ bái Thánh Hiệu của chư Phật cùng chư vị Bồ Tát.

 

Đúng theo nguyên mẫu của chữ Hán Nhật, thì Ngài Bankei chủ trương cũng như đề xướngBất Sanh Thiền”, chứ không phải làTâm Bất Sanh” như Ni Trưởng dịch ra Việt ngữ. Nhiều lúc tác giả và dịch giả còn dịch ra nghĩa làTâm Phật Bất Sanh” nữa. Tuy không đi xa với nguyên ngữ là mấy, nhưng so ra biết tận căn cội của ngôn ngữ ấy thì lối dịch sẽ sát nghĩa hơn. Cũng giống như tác phẩmCâu chuyện dòng sông” của Phùng Khánh (tức Ni trưởng Trí Hải) và Phùng Thăng dịch, vì căn cứ theo bản tiếng Anh, nên đã dịch ra Việt ngữ là như vậy. Trong khi đó nguyên bản tiếng Đức là: “Der Weg nach Innern”, nếu dịch sát nghĩa là:Đường về nội tâm”. Ngay trong lờiGhi chú của người chuyển ra Việt ngữ” Ni Trưởng cũng đã viết ở trang 355 rằng: “Dịch là phản, nhưng đồng thời dịch cũng là tái tạo. Tôi (Thích Nữ Trí Hải) rất tri ân Thiền Sư Bankei, tri ân những người đã ghi lại những bài giảng, mặc dù Ngài đã không cho phép làm như vậy, (vì nghe trực tiếp khác xa với nghe qua người khác, huống gì là ghi lại cho người đời sau. Ngài cấm là có lý, vì không thiếu gì những người ngộ nhận lời nói của các Thiền Sư). Tri ân dịch giả Peter Haskel, người đãsống” với giáo lý Bankei trong mười năm để hoàn thành bản dịch Anh ngữ, và cảm ơn Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, người đã gửi cho tôi (Dịch giả) tập sách…….”

 

Nội dung của 60 bài pháp được nữ sĩ Ryoun Jokan ghi chép lại trong suốt năm nhập thất (đại kết thất) 1690, trước khi Thiền Sư Bankei Yotaku viên tịch 3 năm, là những việc hỏi đáp giữa Thầy và trò, giữa Thiền Sư và võ sĩ đạo, giữa người mù và người sáng mắt, giữa chấp có và chấp không v.v… chung quy là Tâm ấy chẳng sanh và Tâm ấy chẳng diệt. Tâm ấy cũng còn gọi là Phật Tâm hay Tâm Phật không sanh, Tâm Phật không diệt. Đúng ra phải gọi là Thiền ấy không sanh, Thiền ấy không diệt. Bởi lẽ đối với Ngài việc nhận chân ra Thiền không sanh ấy, không cần phải ngồi Thiền hay không cần tham công án, như những công án của Thiền Lâm Tế mà Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền đã chủ trương ở Trung Hoa. Ngài Bankei lý luận rằng: Hãy tự nhiên như nó là và phải cởi mở, dùng ngôn ngữ địa phương (Nhật ngữ) để diễn đạt lời dạy, hay nói đúng hơn là sự diễn dịch về cái nó đang là thì dễ hơn là những hình ảnh hay những âm thanh trừu tượng khó hiểu. Đến ngày 26 tháng 12 năm Nguyên Văn thứ năm, nhằm năm 1740 Thiền Sư Bankei Yotaku được phong là: Đại Pháp Chánh Nhãn Quốc Sư.

 

Thiền thì ít dùng đến ngôn ngữ. Do vậy nói về Thiền thì không công dụng bằng thực tập Thiền. Cho nên ai muốn học Thiền thì cũng nên đi sâu vào nhiều phương pháp thực dụng khác nhau, để tìm ra chân như diện mục của mình, trước khi cha mẹ sinh ta ra, ta là ai và sau khi ta mất đi thì Bất Sanh Thiền nầy sẽ đi về đâu? Nếu Quý độc giả chịu khó bỏ ra vài ngày, vài giờ hay vài tháng để đọc tác phẩm nầy thì chắc rằng, tất cả những câu hỏi trên đây sẽ được giải đáp một cách rốt ráo vậy.

 

 

Viết xong vào lúc 15:00 ngày 30 tháng 8 năm 2021 tại thư phòng của Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 

Sửa lỗi chính tả: Phật Tử Thanh Phi

 

Read More »

Lý Do Nên Giúp Học Bổng Cho Vùng Cao Dak Lak Mà Pháp Cẩn và Những Người Bạn Tốt Đang Vận Hành

 


Có bạn hỏi vì sao nên giúp học bổng vùng cao (Dak Lak), cụ thể là chương trình mình, Pháp Cẩn, và nhóm đang vận hành? Câu hỏi thú vị lắm. Đại khái là có quá nhiều chương trình học bổng thì vì sao lại chọn giúp vùng cao Dak Lak này, và vì sao giúp quỹ học bổng cụ thể này? Có vài lý do:

 

1.     Vì là vùng cao, vùng sâu vùng xa (huyện Krong Bong của tỉnh Dak Lak) nên dân nghèo bậc nhất nước. Thực vậy, các huyện khác tỉnh Dak Lak có đất đỏ khá phì nhiêu nên họ trồng được cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, tiêu…nên kinh tế tốt hơn. Huyện Krong Bong đất đen dinh dưỡng không cao, không phù hợp cho lắm với cây công nghiệp nên dân trồng cây nông nghiệp ngắn ngày như đậu, bắp….nên dân nghèo.

 

2.     Huyện Krong Bong có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số Ê Đê. Họ sống trong các buôn làng trên triền núi có một số cách khá xa với văn minh nhân loại. Hơn nữa, người dân tộc thiểu số Tây Bắc di cư vào khá đông nên họ cũng quá nghèo và mới di cư vào họ lo miếng ăn chưa xong thì chuyện học tập của con cái là nhu cầu thứ yếu. Khác với những tỉnh miền trung hay bắc học thuật là văn hoá, truyền thống nên dù nghèo họ vẫn có truyền thống học tập.

 

3.     Huyện Krong Bong, Tỉnh Dak Lak là nơi không có biển nên không/hiếm có những khu công nghiệp mang lại kinh tế mạnh. Thường người ta đặt các khu công nghiệp/công nghệ ở những tỉnh ven biển/gần biển để vận chuyển đường biển xuất khẩu/nhập khẩu dễ dàng. Do không/ít có công nghiệp nên nông nghiệp là chính mà nông nghiệp thì kinh tế khó có thể giàu lên. Thực vậy, khi Việt Nam công nghiệp hoá, hiện đại hoá vài chục năm nay, một số tỉnh, thành phố nhanh chóng giàu lên nhờ đón nguồn đầu tư công nghiệp, công nghệ cũng như xuất khẩu nhộn nhịp… thì huyện Krong Bong vẫn nông nghiệp ngắn ngày đậu bắp nghèo khổ và bình quân đầu người tăng chậm hơn nên nghèo tương đối so với vùng khác bị giãn mạnh.

 

4.     Tỉnh Dak Lak không có những đại học tốt nên nhìn chung học thuật còn kém so với những tỉnh đồng bằng. Hơn nữa, huyện Krong Bong là một trong những huyện nghèo nhất với người dân tộc thiểu số bản địa và di cư nên truyền thống học tập không cao, lại không được sống trong những quần thể Đại học tinh hoa nên sự lan toả tầm quan trọng giáo dục còn khiêm nhường. Một hậu quả là số người du học còn ít nên rất ít người là Việt kiều trí thức/thương gia quay lại giúp Krong Bong.

 

5.     Do không có biển nên không có/hiếm có dân vượt biên qua những nước phát triển giàu mạnh. Người Huế có biển nên vượt biên qua Mỹ đông. Tương tự là người Quảng Trị, hay những tỉnh miền trung miền nam khác họ qua Mỹ hay Tây Âu, châu Úc…. Ở Miền bắc thì dân hải Phòng vượt biên qua Hong Kong và những nơi khác cũng như đi xuất khẩu lao động ở Đông Âu, Liên Xô…Những Việt Kiều này khi quê nhà khó khăn thì quay lại giúp đỡ nhiều vì dù muốn dù không họ có bà con cô bác ở đó. Khi khó khăn như Đại dịch này thì Việt Kiều ở những nước phát triển có kinh tế quay về giúp lại huyện Krong Bong, Dak Lak quá ít ỏi.

 

Trên là 5 lý do nên giúp học bổng huyện Krong Bong, Dak Lak.

 

Dưới đây là 2 lý do nên giúp chương trình học bổng mà Pháp Cẩn và những người bạn tuyệt vời đang vận hành:

1.     Quỹ cam kết 100% tiền quý ân nhân tặng đến tận tay các em học sinh với xét tuyển công phu minh bạch và viết thư cảm ơn từ các em nhận tiền có số điện thoại/email/địa chỉ nhà để quý ân nhân có thể liên lạc trực tiếp để kiểm tra. Thực tế hơn 100% số tiền quý ân nhân tặng đến tay các em. Lý do là các thành viên ban tổ chức còn tự bỏ tiền vào tặng các em nữa. Hơn 100 triệu đồng (hơn $5000) đã được các thành viên ban tổ chức bỏ ra lặng lẽ tặng các em trong năm qua 2020-2021.

2.     Quỹ chúng ta có Ban Phòng Chống Tham Nhũng để CHẮC CHẮN không xảy ra tham nhũng, tiêu cực có chủ ý. Ban hoạt động không có vùng cấm. Đây là điều đặc biệt vì không mấy quỹ từ thiện có ban phòng chống tham nhũng cả. Ban phòng chống tham nhũng có những chuyên gia kế toán kiểm toán, giáo viên, ngân hàng, luật sư... Một trong những thành viên ban phòng chống tham nhũng là cô @Bay Duong (các thành viên khác hoạt động âm thầm không nêu tên). Cô Bảy học Đại học về Kinh tế, cô cũng là trưởng nhóm Kế Toán Kiểm Toán.

Nghĩa là quý vị tặng tiền vào quỹ là hoàn toàn yên tâm tiền đến tận tay các em học sinh hoàn cảnh thực sự khó khăn học thật sự tốt.

 

5 điều trên và 2 điều sau là những nguyên nhân quý vị nên tặng tiền vào quỹ học bổng mà Pháp Cẩn và những người bạn tuyệt vời của chúng ta đang vận hành.

Read More »