Khi một khám phá mới ra đời, nó có thể bổ sung thêm những điều hiểu biết đã
có từ trước. Trong tìm hiểu Phật Giáo cũng có những khám phá mới ra đời. Thí dụ
qua những điều mình (tỳ kheo Pháp Cẩn) học ở Mỹ qua một số nguồn tham khảo tiếng
Anh thì Tất Đạt Đa (Siddhartha—người thành Phật Thích Ca sau này) không phải là thái tử
tức không phải con một vị vua. Điều này không giống với truyền thống Phật Giáo
đã quen từ lâu và được lặp đi lặp lại rất nhiều nơi rằng Tất Đạt Đa là thái tử
con vua Tịnh Phạn.
Điều
này được bàn đến trong chương một tác phẩm Buddhist
Thought (Tư Tưởng Phật Giáo) của hai tác giả Paul Williams và
Anthony Tribe (2002). Đây là giáo trình chính trong môn Buddhist Philosophy (Triết Học Phật Giáo) được giảng dạy trong Đại học Mỹ (có ở
Rollins College). Tất Đạt Đa
là thành viên của bộ lạc Thích Ca (Sakya clan), một cộng đồng có lẽ được lãnh
đạo bởi một hội đồng những vị trưởng lão tài giỏi (council of distinguished
elders), chắc theo mô hình thiểu số chính trị (oligarchy) với kiểu một vị
trưởng lão trong số ấy được chọn lựa làm lãnh đạo trong một thời gian. Bộ lạc
Thích Ca ấy không có vua. Tức Tất Đạt Đa, Đức Phật sau này, không phải là hoàng
tử, không phải là con vua, càng không phải con một vị vua đầy quyền lực. Cha
của Tất Đạt Đa có thể là một người được chọn làm lãnh đạo trong một thời gian,
hay là một trong số những vị trưởng lão, hoặc không (“For example, the Buddha was not born
a prince, at least if a prince is the son of a king, let alone the son of a
powerful king.10
We know that his clan of the Sakyas had no king. It was one of the North
Indian republics soon to be absorbed into the growing empire of the Magadhan
monarchy. The Sakya clan was ruled probably by a council of distinguished
elders (it was thus perhaps what is known as an ‘oligarchy’), with possibly one elder elected for a period
of presidency. Perhaps the Buddha’s father was one of these presidents, or one
of the other elders, or perhaps not”
Williams and Tribe, p. 25-6).
Tài liệu
thứ hai là chương hai The Life of The
Buddha—Cuộc Đời Của Phật trong cuốn sách A History of Indian Buddhism From Sakyamuni to Early Mahayana (Lịch
Sử Phật Giáo Ấn Độ từ Phật Thích Ca đến Đầu Phật Giáo Đại Thừa) của tác giả Hirakawa
Akira (1990). Tác giả này viết rằng sự lãnh đạo [trong bộ tộc Thích Ca] theo
kiểu thiểu số chính trị với những lãnh đạo lần lượt là người đứng đầu (“The
government was an oligarchy with the leaders alternating as head (rajan) of the
tribe” p. 21)… Cha của Phật, Tịnh Phạn, là một trong những lãnh đạo của bộ tộc
Thích Ca (“The Buddha’s father, Suddhodana, was one of the leaders of the
Sakyas”).
Tài liệu thứ ba là từ cuốn sách A
Concise History of Buddhism (Lịch Sử Phật Giáo Cô Đọng) của tác giả Andrew Skilton
(2000) cũng cho rằng cha của Tất Đạt Đa là thành viên của lãnh đạo kiểu thiểu
số chính trị ([Siddhartha Gautama’s] father was a
member of the ruling oligarchy…p. 19).
Thứ tư là mình có hỏi lại cho chắc với giáo sư dạy mình những môn Phật Học
ở Rollins College là Mario D’Amato, người đã lấy tiến sĩ Phật Học ở Đh Chicago nổi
tiếng, về việc này và ông trả lời đúng là Tất Đạt Đa không phải là thái tử vì
cha ông ấy không phải là vua.
Những nguyên nhân làm cho Tất Đạt Đa trở thành thái tử.
Nguyên nhân thứ nhất. Những điều được đọc sách Phật Giáo về
lịch sử Đức Phật có thể không hẳn là lịch sử Phật Thích Ca, không hẳn là tiểu sử danh nhân
(biography) một cách khách quan mà là hagiography, theo định nghĩa là tiểu sử
danh nhân tâm linh hay tôn giáo xuất hiện thường theo sự diễn tả được yêu
thích (‘spiritual or religious
biography’ appears often to be the preferred expression” Williams and Tribe, p. 26).
Nguyên nhân thứ hai. Phải mất gần cả chục thế kỉ để những người Ấn Độ theo
Phật Giáo soạn thảo hoàn chỉnh lịch sử của Phật và để đại diện đầy đủ trên
những đài tưởng
niệm. Huyền thoại vì thế đã soạn thảo kĩ lưỡng rồi được cấy ghép đến toàn cõi
Viễn Đông nơi phải trải qua sự sửa đổi thường xuyên để tương xứng với mong đợi
của những tín đồ mới (“it took the Indian Buddhists nearly ten
centuries to compose a complete biography of their Master and to represent
it in full on their monuments. The legend
thus elaborated was transplanted throughout the whole of the Far
East where it underwent constant alterations in order to make it correspond to
the expectations of the new believers” p. 15). Đây là nhận xét từ cuốn sách History of Indian Buddhism: from
the Origins to the Saka Era (Lịch Sử Phật
Giáo Ấn Độ: Từ Nguyên Thuỷ Tới
Thời Đại Saka) của tác giả Etienne Lamotte (1988).
Nguyên nhân thứ ba. Vào thời gian Tất Đạt Đa sinh, trong những
vùng bìa rừng của dãy Hy Mã Lạp Sơn còn tồn tại những bộ lạc tổ chức kiểu cộng
hoà chống lại sự bành trướng nổi lên của những chính thể quân chủ mới tại trung
tâm lưu vực sông Hằng…Truyền thống sau này, chỉ biết những chính thể quân chủ
đã chiếm những chính thể cộng hoà trước kia, đã sai niên đại gán cho Tất Đạt Đa
cái tên “thái tử” và cha của ông là “vua” (“At the time of [Siddhartha’s]
birth, among the foothills of the Himalayas, there were still some clan-based
republics resisting the growing expansion of the new monarchies of the central
Ganges basin”…
“Later tradition, knowing only the monarchies which usurped the earlier
republics, anachronistically dubbed Siddhartha a ‘prince’ and his father a
‘king’” Skilton, p.
19).
Hai tác giả
Williams và Tribe cũng cùng nhận định trên.
Tôn kính Đức Phật là cần thiết.
Làm sáng tỏ lịch sử Phật Giáo là cần thiết.
References
Akira, W.
(1990). A Histrory of Indian Buddhism
From Sakyamuni to Early Mahayana.
University
of Hawaii: University of Hawaii Press.
Lamotte,
E. (1988). History of Indian Buddhism:
from the Origins to the Saka Era. Louvain
Paris:
Peters Press.
Williams,
P., & Tribe, A. (2002). Buddhist
Thought: A Complete Introduction to the Indian
Tradition. London and New York: Routledge.
Skilton,
A. (2000). A Concise History of Buddhism.
Birmingham: Windhorse Publications.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét