Giới Thiệu Sách: Tây Vực Ký

 



 

Sách Tây Vực Ký, Huyền Trang Pháp sư thuật. 

Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến 

Việt dịch & chú giải. Tuệ Sỹ giới thiệu.

Hội Đồng Hoằng Pháp xuất bản quý I/2022 

nhân dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 

qua mạng toàn cầu Amazon.   

Hương Tích Phật Việt sẽ xuất bản tại Việt Nam.

 

 

 

“... [Pháp sư Huyền Trang] hướng tâm cõi tịnh, cất bước Tây du, vượt hiểm nguy đường xa vạn dặm, chống gậy trúc một mình thẳng tiến. Sớm đầy trời tuyết đổ, chẳng thấy đường đi; chiều gió cát mịt mù, trời không biết hướng. Núi tiếp núi chập chùng muôn dặm, khoát mây trời dấn bước tiến lên; rét căm căm lại nóng nung người, đạp gió đội mưa thẳng về phía trước. Lòng chí thành, gian lao xem nhẹ; nguyện thâm sâu, chí đạt mong cầu; mười bảy năm liền trời Tây dạo khắp; nghiên tầm Chánh giáo, các nước đều qua...”

Đường Thái Tông

(trích Lời tựa Tam Tạng Thánh Giáo)


 

 

TUỆ SỸ

 

GIỚI THIỆU SÁCH “TÂY VỰC KÝ”

 

I.

Pháp sư họ Trần , tục danh Y hoặc Huy . Từ Hán , theo Từ điển Khang Hy, phát âm theo Đường vận, đọc là Huy ; phát âm theo Tập vận, đọc là Y 集韻】【韻會】吁韋切. Tập vận, từ điển phát âm được biên soạn dưới thời Tống Nhân Tông niên hiệu Cảnh hựu thứ 4 (1039). Đường vận được biên soạn thời nhà Đường, khoảng sau năm 733 hay 751 TL. Pháp sư sinh vào thời nhà Đường, vậy tục danh của Pháp sư đọc là Trần Huy.

Sau khi xuất gia, Pháp danh của ngài là Huyền Trang, hay Huyền Tráng . Ta quen đọc là Huyền Trang, nhưng theo phiên âm Bắc kinh hiện tại, đọc là Xuán Zàng (âm trắc), phát âm đúng là Huyền Tráng.

Cho đến triều Thanh, do kỵ húy vua Khang Hy, 玄奘được viết thay bằng 元奘. Như Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh sự quán giải được viết bởi Sa-môn Tục Pháp 沙門續法dưới triều Khang Hy. Nhiều tên khác như Vương Huyền Sách 王玄策 được viết thay bằng Vương Nguyên Sách 王元策, Phòng Huyền Linh 房玄齡 bằng Phòng Nguyên Linh 房元齡.

Các học giả phương Tây đầu tiên nghiên cứu và phiên dịch Đại Đường Tây vực ký (Thomas Watters, On Yuan Chwang, 1904) cho rằng hai từ hay có thể phát âm như nhau vào thời nhà Đường. Ý kiến này khả dĩ có lý, nếu theo cách phát âm của người Nhật, như Huyền Tráng phát âm là げんじょう(genjō), 玄昉 Huyền Phưởng phát âm là げんぼう(genbō), 道元 Đạo Nguyên đọc là どうげん(dōgen), 隱元Ẩn Nguyên đọc là いんげん(ingen).

W. F. Mayers (Chinese Readers’ Manual, 1910) cho rằng 玄奘 nguyên viết là 元奘 nhưng vì kỵ húy mà đổi thành; do đó trong mục từ 962 ông phiên âm Yüan Chwang, đọc theo âm Hán Việt là Nguyên Tráng thay vì Huyền Tráng.

T. W. Rhys Davis, người sáng lập Pāḷi Text Society và cũng là dịch giả nhiều Thánh điển Pāli sang tiếng Anh, cùng với S. W.  Bushell biên tập và cho ấn hành tác phẩm On Yuan Chwang (1904) của Thomas Watters (1840-1901), đã dẫn ra ít nhất có 6 phiên âm La-tinh khác nhau về từ 玄奘 của những nhà nghiên cứu phương Tây đầu tiên:

1. M. Stanislas Julien

Hiouen Tshang.

2. Mr. Mayers

Huan Chwang.

3. Mr. Wylie

Yuén Chwàng.

4. Mr. Beal

5. Prof. Legge

6. Prof. Bunyiu Nanjio

Hiuen Tsiang.

Hsüan Chwang.

Hhüen Kwân.

Chúng ta chỉ biết những phiên âm La-tinh này trên giấy nên không rõ thực tế phát âm như thế nào.

Để giải thích rõ những phiên âm khác nhau này, Rhys Davids dẫn lời của Thomas Francis Wade (1818-1895), nhà ngoại giáo và Hán học. T. F. Wade cùng với Herbert Giles biên soạn hệ thống La-tinh hóa cho phát âm quan thoại gọi là hệ thống phiên âm la-tinh Wade-Giles được Giles hoàn thành với quyển từ điển Chinese-English Dictionary (1892).

Theo giải thích của Thomas Wade, danh hiệu của Huyền Tráng được viết dưới hai dạng (1) 玄奘 và (2) 元奘. Phát âm theo giọng Bắc kinh đương thời, ông phiên âm (1) hsüan chuang và (2) yüan chuang, và phiên âm này cũng được Dr. Legge chấp nhận. James Legge (k. 1815-1897) được xem là nhà Hán học lớn và nổi tiếng với sự phiên dịch chú giải văn học cổ điển Trung hoa, do rất có thẩm quyền về lãnh vực này nên được dẫn chứng ở đây. Hai dạng nêu trên người Pháp phiên âm (1) hiouen thsang, (2) youan thsang, theo hệ phiên âm của đoàn Truyền giáo La-mã (Romish Missionaries). Rhys Davids có vẻ tán thành lối phiên âm của Stanislas Julien vì bản dịch tiếng Pháp Đại Đường Tây vực ký của ông (Mesmoires sur Les Contrées Occidentales, par Hiouen-Thsang, 1857) rất nổi tiếng và có uy tín. Âm H trong phiên âm của Julien trong tiếng Pháp thực tiễn là âm câm, do đó Hiouen đọc như là Iouen, và có thể được viết là Yuan theo hệ phiên âm khoa học được chấp nhận trong tất cả các hệ ngôn ngữ phương Đông.

Thêm nữa, Watters (On Yuan Chwang, p.6, n.2) nói rằng trong các bản văn Tạng ngữ 玄奘 được phiên âm là T’ang Ssen-tsang hay T’ang Sin (hay Sang). Đây có lẽ là phiên âm la-tinh từ ཐང་ཟན་ཙང་ (Wylie: thang zan tsang), từ được tìm thấy trong 蔵漢大辭典 (bod rgya tshig mdzod chen mo, 1978). Ông cho rằng Ssen-ts’ang là lối phát âm hay phiên âm Tạng ngữ tương đương phiên âm la-tinh Hsüan-ts’ang.

Mặc dù các học giả phương Tây theo phát âm bản địa của mình mà có những phiên âm khác nhau, nhưng ngày nay theo tiêu chuẩn phiên âm Bắc kinh, danh hiệu của Pháp sư được ghi là Xuan Zang. Âm Hán Việt của người Việt từ trước vẫn đọc là Huyền Trang, có khi đọc là Huyền Tráng.

Tiểu truyện Pháp sư được ghi chép đầy đủ, được ấn hành trong Đại chánh tạng với tiêu đề 大唐大慈恩寺三藏法師傳 - 沙門慧立本釋彥悰箋 Đại Đường Đại Từ ân tự Tam tạng Pháp sư truyện, bản gốc bởi Huệ Lập, bổ sung bởi Ngạn Tông.

Chi tiết về cuộc đời của Ngạn Tông được ghi chép trong Tống Cao tăng truyện, quyển 4, rất vắn tắt: Không rõ quê quán, cuối niên hiệu Trinh quán, khoảng những năm trước 649, lên Kinh, cầu Pháp làm môn nhân của Tam tạng Pháp sư, tài không bằng Phổ Quang, Bảo Thái, nhưng kiến thức rộng rãi, thông suốt Huyền học, Nho học. Phần tiếp theo, chỉ phỏng theo bài tựa của chính Ngạn Tông viết cho Đại Đường Đại Từ ân tự Tam tạng Pháp sư truyện, mà bản gốc viết bởi Huệ Lập, và Ngạn Tông là người bổ sung.

Ngạn Tông sinh vào cuối thời Trinh quán, trong khoảng 627- 649, nhưng ít tuổi hơn Huệ Lập (sinh khoảng 615). Tống Cao tăng truyện, quyển 4, chép: Thích Ngạn Tông, không rõ quê quán, sinh khoảng cuối thời Trinh quán (trước 649). Có lẽ đây là khoảng thời gian mà, vào năm Trinh Quán 19 (645) Huệ Lập được vua chọn trong số 9 người hỗ trợ Huyền Trang bắt đầu sự nghiệp phiên dịch từ chùa Hoằng phước. Tống Cao tăng truyện, quyển 17, chép khá đầy đủ về Huệ Lập, nhân cách cũng như tài năng. Nguyên tên 子立 Tử Lập, vua Cao Tông đổi lại là Huệ Lập, chữ Hán viết là , cũng viết là . Cả hai từ này, Khang hy phát âm giống nhau: 【唐韻】【集韻】【正韻】胡桂切,音 , phiên âm chuẩn Bắc kinh là hui. Bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi (Trinh quán thứ 3, 629) xuất gia tại chùa Chiêu nhân, Bân châu 豳州昭仁寺. Học thông cả Nho lẫn Thích. Vua sắc phong “Đại Từ ân tự phiên kinh Đại đức”. Cao Tông nhiều lần triệu vào Đại nội, cùng đối luận với các đạo sĩ, rất hợp ý chỉ của vua. Lúc bấy giờ, Thượng y phụng ngự Lữ Tài, quan chức tối cao trong Thượng dược cục, tức Thái y lệnh, chức trách trị bệnh cho các quan, viết Nhân minh đồ chú, 3 quyển, giải thích sai quấy về nhân minh, tức luận lý học Phật giáo do Huyền Trang truyền, bài xích chính nghĩa của các sư, Huệ Lập bèn viết sách chỉ trích khiến Lữ Tài câm nín.

Huệ Lập ngưỡng mộ hành nghi của Tam tạng Huyền Trang do đó viết truyện, tức Đại Từ ân tự Tam tạng truyện, 5 quyển. Chi tiết về biên tập và lưu hành bản truyện này được Ngạn Tông tường thuật trong bài tựa. Năm Trinh quán 19 (645), Pháp sư về đến Kinh đô Trường An, đạo tục đều nghinh đón thật là một thời náo nức. Sau đó, yết kiến Thiên tử, vua ân cần hỏi han, rồi chiếu lệnh các quan chọn người tài năng hỗ trợ Pháp sư phiên dịch. Trăm người đều thờ kính, thật khó nói hết lời. Cho đến như hàng thị tộc trâm anh cũng từ giã gia thân mà nhập đạo, bước theo con đường diệu vợi, trong ngoài đều tán dương, biểu thị ngưng nghỉ Hóa thân mà trở về với Chân thân, cũng như hết củi thì lửa tắt; những chuyện như vậy có đầy đủ trong truyện này.

Truyện gốc có 5 quyển, soạn thuật bởi Sa-môn Huệ Lập, Ngụy quốc Tây tự. Chùa này trước kia vốn có tên là 長安太原寺 Trường An Thái Nguyên tự. Huệ Lập được Ngạn Tông mô tả là con người cứng cỏi, không sợ uy nghiêm, xuống nước, vào lửa, không gì làm cho nhụt chí. Ngưỡng mộ sở học và sở hành cũng như hình nghi của Tam tạng, vẻ như càng dùi mài càng cứng rắn, càng trông lên càng cao xa, nhân đó mà soạn sự tích để làm gương lâu đời. Sau khi soạn xong cảo bản, dè chừng còn thiếu sót những điều hay do đó chôn giấu kỹ dưới đất, người đời không ai nghe đến. Cho đến khi bệnh nặng biết chừng không qua khỏi mới khiến môn đồ đào lên mà công bố rồi mới chết. Môn nhân buồn thương kêu khóc nghẹn ngào, mà truyện này lại lưu ly phân tán nhiều nơi, qua nhiều năm tìm tòi, gần đây mới trọn đủ.

Bài tựa của Ngạn Tông được viết vào niên hiệu Thùy Củng thứ tư (688), không nói rõ năm Huệ Lập mất. Trong thư danh soạn giả, nói rằng 沙門慧立本釋彥悰箋 - Sa-môn Huệ Lập bản, Thích Ngạn Tông tiên, có thể được hiểu theo hai trường hợp. Hoặc 5 quyển đầu do Huệ Lập viết và 5 quyển sau do Ngạn Tông diễn giải thêm chi tiết. Nhưng cũng có thể hiểu từ bản gốc 5 quyển viết do Huệ Lập soạn, sau đó Ngạn Tông diễn giải thêm chi tiết thành 10 quyển, nghĩa là không phân biệt 5 quyển đầu và 5 quyển cuối là hai người viết riêng biệt. Thế nhưng, cuối quyển 10 ghi một đoản văn Nghị Luận của Huệ Lập 釋慧立論曰 và một bài Kệ Tán , luận về con người, công hạnh và sự nghiệp của Pháp sư, và tán dương sở hành, sở học của Pháp sư. Luận và Tán này ở cuối cuối quyển 10 có thể chứng minh rằng, thoạt tiên bản truyện Huệ Lập viết thủy chung 5 quyển, nhưng sau đó theo yêu cầu Ngạn Tông bổ sung chi tiết thành 10 quyển. Nghĩa là, không phải Huệ Lập chỉ soạn 5 quyển đầu, và Ngạn Tông tiếp nối thêm 5 quyển sau.

Trong 10 quyển, quyển 1 ghi chép tiểu sử Pháp sư từ xuất sinh, xuất gia, thọ giới, tham học cho đến năm Trinh Quán thứ 3 (629) xuất phát từ Trường An, qua Ngọc Môn quan, vượt sa-mạc Mạc-hạ-diên, đi về phía tây cho đến nước Cao Xương. Quyển 2 cho đến quyển 5, chép cuộc hành trình từ nước A-kì-ni (Agni) cho đến cuối cùng trở về bản quốc. Đây cũng chỉ là bản tóm tắt cuộc hành trình nhập Trúc cầu pháp được ghi chép chi tiết trong Đại Đường Tây vực ký.

Quyển 6 trở đi, bắt đầu từ năm Trinh Quán 19 (645), Pháp sư về đến Trường An. Cho đến quyển 10, chép từ năm Hiển Khánh thứ 3 (658) rời Lạc Dương về Trường An, trú tại chùa Tây Minh. Năm sau dời vào cung Ngọc Hoa.

Giáo nghĩa mà Trung hoa tiếp nhận đầu tiên là Không Tính luận (śūnyavāda) vốn là yếu nghĩa hàm chứa trong các kinh Bát-nhã như Đại phẩm và Tiểu phẩm mà trước đó Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) đã dịch. Đây chỉ   là một phần của toàn bộ kinh điển Đại Bát-nhã, tương đương với Pañcaviṃśatisāhasrikā (Nhị vạn ngũ thiên tụng) và Aṣṭasāhasrikā (Bát thiên tụng) trong khi Śatasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra (Bách vạn tụng) và nhiều Kinh thuộc hệ Kinh Bát-nhã chưa hề được biết đến. Do đó, khi được biết số lượng đồ sộ của Đại Bát-nhã, đại chúng yêu cầu Pháp sư phiên dịch. Pháp sư cho rằng dịch trường trong chùa Từ ân là chốn kinh thành ồn ào mà mệnh người lại vô thường khó có thể hoàn tất bộ Kinh lớn này, tỏ ý được dời vào cung Ngọc Hoa. Vua Cao Tông tức thì chấp thuận.

Cung Ngọc Hoa vốn là nơi nghỉ mát, tĩnh dưỡng được xây dựng vào năm Trinh Quán thứ 2 (628). Đến năm Vĩnh Huy thứ 2 (651) Đường Cao Tông Lý Trị đổi thành chùa Ngọc Hoa. Năm Hiển Khánh thứ 4 (659), Pháp sư dời vào cung Ngọc Hoa, bấy giờ đổi thành chùa Ngọc Hoa, và đến năm sau (660) khởi sự phiên dịch. Cho đến niên hiệu Long Sóc thứ 3 (663) thì hoàn tất toàn bộ Đại Bát-nhã ba-la- mật-đa kinh, gồm 600 quyển, 16 hội.

Pháp sư khởi hành năm Trinh Quán thứ 3 (629), bất chấp lệnh cấm xuất quan, mạo hiểm Tây Trúc cầu pháp, trải qua 17 năm, kinh lịch 138 nước, Tây Vực và Ấn Độ. Năm Trinh Quán 19 (645), Pháp sư trở về nước, mang theo 657 Phạn bản; trong đó:

Đại thừa kinh                                                        224 bộ

Đại thừa luận                                                        192 –

Thượng tọa bộ (Sthavira)                                    14 –

Đại chúng bộ (Mahāsaṅghika                              15 –

Hóa địa bộ (Mahīśāśka, Di-sa-tắc)                       22 –

Chính lượng bộ (Sammitiya, Tam-di-để)              15 –

Ẩm quang bộ (Kāapiya, Ca-diếp-tí-da)                17 –

Pháp tạng bộ (Dharmagupta, Pháp mật bộ)        42 –

Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivāda)                          67 –

Nhân luận (Hetuśāstra)                                          36 –

Thanh luận (Śabdika-śāstra)                                  13 bộ.

Cũng năm đó, Trinh Quán 19 (645), ngày 6 tháng 6, vâng sắc chỉ Hoàng đế, tại chùa Hoằng Pháp, Pháp sư khởi sự phiên dịch các Phạn bản đã mang về, cho đến năm Long Sóc 3 (663), sự nghiệp phiên dịch hoàn tất với bộ Đại Bát-nhã 600 quyển.

Năm sau, Lân Đức thứ nhất (664), tháng Giêng, Pháp sư khiến Gia Thượng Pháp sư tổng kết Kinh Luận đã được phiên dịch, tính được 74 bộ (合七十四部, Julien hiểu là 740 bộ), 1338 quyển.

Ngày 7 tháng 12 (âm lịch) năm đó (664), sau khi hoàn tất phiên dịch Đại Bát-nhã, Pháp sư cảm thấy thân thể suy kiệt, bảo môn nhân: “Ta dời vào Ngọc Hoa vốn do nhân duyên Bát-nhã, nay phiên dịch đã hoàn tất, mệnh sống của ta cũng đến lúc cạn hết. Sau khi vô thường đến với ta, các người phải nghe di chúc của ta mà giản đơn kiệm ước, hãy dùng chiếu lác bó thây, chọn nơi khe núi vắng vẻ mà chôn, chớ để gần chùa cung (chùa Ngọc Hoa). Thân bất tịnh cần phải chôn nơi xa cách.”

Niên hiệu Lân Đức thứ nhất (664), tháng hai, ngày 5, nửa đêm, các đệ tử hỏi: “Hòa thượng có nhất định được sinh lên nội viện của Đức Di-lặc không?” Pháp sư đáp: “Được.” Rồi hơi thở yếu dần, và phút chốc thâu thần, nhưng người hầu không biết, chỉ khi chạm đến y phục mới hay.

Huệ Lập 慧立 (hay Tuệ Lập 慧立), sinh năm 615, xuất gia năm 15 tuổi (Trinh Quán 3, 629), không rõ năm mất.

Sau khi viết Đại Đường Đại Từ Ân tự Tam tạng Pháp sư truyện cảm thấy còn thiếu sót nên chôn giấu, trước khi chết khiến môn nhân tìm kiếm, nhưng cốt truyện lưu lạc trong nhân gian, qua một thời gian dài mới tìm thấy 5 quyển, năm 688 Ngạn Tông bổ sung thêm chi tiết thành 10 quyển. Huyền Trang mất năm Lân Đức thứ nhất (664), như vậy truyện nguyên cảo Huệ Lập viết và Ngạn Tông tiên thích và lưu hành sau khi Pháp sư tịch trên 20 năm.

Huệ Lập và Ngạn Tông đều là nhân vật đồng thời Pháp sư nên truyện ký tất nhiên được nghe chính Pháp sư kể. Thực tế, Pháp sư truyện 10 quyển do Huệ Lập và Ngạn Tông được thấy rõ là bản tóm tắt của Tây vực ký được chính Pháp sư thuật và Biện Cơ biên tập, 12 quyển, hoàn tất năm Trinh Quán 20 (646).

Huệ Lập, Ngạn Tông, Biện Cơ, Phổ Quang, Đạo Tuyên, v.v... là những vị trong số chín Đại đức được tuyển chọn làm Chuyết văn (chuốt văn) Đại đức hỗ trợ Huyền Trang phiên dịch. Đạo Tuyên mất năm 687, trước khi Ngạn Tông tiếp tục biên tập Pháp sư truyện và lưu hành.

Niên hiệu Lân Đức thứ nhất (664), dưới triều Đường Cao Tông Lý Trị, Đạo Tuyên hoàn thành Đại Đường Nội điển lục, sao lục sự nghiệp dịch kinh từ Đông Hán (25-220) với 220 dịch giả, kinh điển 2487 bộ, 8476 quyển, trong đó ghi chép số lượng kinh điển do Pháp sư dịch và soạn tính đến năm Lân Đức 1 (644) có hơn 60 bộ trên 1344 quyển. Ước tính này có sai khác với kiểm lục mà Huyền Trang đích thân khiến Gia Thượng Pháp sư như đã thấy trên.

Đạo Tuyên cũng viết Tục Cao tăng truyện, sao lục các Cao tăng phiên dịch kinh điển từ buổi đầu nhà Lương cho đến niên hiệu Trinh Quán 19 (645), đó là năm Pháp sư khởi sự phiên dịch tại chùa Hoằng Phước. Bài tựa của chính Đạo Tuyên viết cho Tục Cao tăng truyện nói: “Bắt đầu từ sơ vận của đời Lương (502-557), kết thúc Đường Trinh Quán 19 (645), trải qua 140 năm, bao quát Nhạc Độc (sông núi Trung Nguyên) cho đến khắp Hoa Hạ, Man Di, chính truyện 340 người, phụ lục 160 người.” Trong đó, quyển 4, chép Từ Ân tự Huyền Trang truyện, từ sơ sinh, thân thế, dòng họ, xuất gia, thọ giới, nghiên tập Thánh điển, Câu- xá, Thành thật, Nhiếp luận, v.v… đại để cũng như được ký tải trong Pháp sư truyện bởi Huệ Lập và Ngạn Tông.

Truyện tiếp theo sau đó, trên đường Tây hành, lướt qua đoạn đường từ sự cố Qua Châu, sự cố Hồ Tăng Thạch- bàn-đà, vượt qua sa-mạc Mạc-hạ-diên, cuối cùng đến Cao Xương, như được kể trong truyện bởi Huệ Lập.

Những ngày Pháp sư lưu trú tại Cao Xương, mối quan hệ giữa Pháp sư với Cúc Văn Thái 麴文泰 truyện kể sơ lược. Rời Cao Xương đến Thiết môn quan, trong quốc cảnh Cao Xương. Từ đây, đoạn lữ hành cho đến A-kì-ni (Agni) không được Đạo Tuyên ký tả theo thứ tự các nước. Như từ Thiết môn quan phía Tây Hán thổ đi thẳng đến nước 貨羅覩Đổ-hóa-la (Tukhāra), nơi phát nguyên con sông lớn 縛芻Phược-sô (Vakṣu/Oxsus) chảy qua 27 nước, Pháp sư lần lượt đến 縛喝Phược-hát (Balkh) trong Tây vực ký quyển 1. Từ Phược-hát lại kể thẳng đến Ca-tất-thí (Kapitha) trong Tây vực ký quyển 4, bỏ qua 13 nước. Những địa danh thuộc các nước Tây vực đọc theo phiên âm cũ cho đến Ô-kì hay A-kì- ni. Từ đó các phiên âm đều theo Tây vực ký. Năm Trinh quán 20, Huyền Trang vâng sắc lệnh vua soạn Tây Vực ký 12 quyển tại chùa Hoằng Phước, Sa-môn Biện Cơ vâng chỉ chuyết văn, tháng 7 năm đó thì dứt, như được thấy trong Đại Đường nội điển lục (Đạo Tuyên soạn, 644) mà Khai Nguyên lục và Trinh Nguyên lục đều dẫn. Như đã thấy trên, chính Đạo Tuyên nói Tục Cao tăng truyện được viết đến năm Trinh Quán 19 thì ngưng. Như vậy, nó được ngưng trước khi Tây Vực ký được viết. Thế nhưng, trong bản truyện hiện hành trong Đại chánh, truyện Huyền Tráng được chép đến năm Lân Đức 1 (664), năm Pháp sư tịch. Từ đây có thể biết, tiểu truyện Pháp sư nguyên cảo được kể từ sơ sinh cho đến thời Tây hành vượt qua nhiều nước Tây trước khi đến nước đầu tiên trong số 138 nước Pháp sư sẽ kinh lịch mà Tục Cao tăng truyện vẫn còn kể theo âm cũ Ô-kì, thay vì A-kì-ni như trong Tây Vực ký.

Trong Pháp sư truyện bởi Huệ Lập và Ngạn Tông, cũng như trong Tây vực ký, A-kì-ni còn một số bản dịch khác từ Hán 138 nước mà Pháp sư trải qua và ký tả chi tiết.

Từ địa danh 阿耆尼A-kì-ni không xuất hiện trong Cao tăng truyện bởi Đạo Tuyên, thay vào đó là Ô-kì. Pháp sư truyện và Tây vực ký đều có phụ chú 阿耆尼國(舊曰烏耆) “Nước A-kì-ni, xưa gọi là Ô-kì.” Không chỉ A-kì-ni, mà còn nhiều địa danh khác không xuất hiện như phiên âm Hán trong Pháp sư truyện và Tây vực ký như 屈支國界(舊云龜茲,訛也) Khuất-chi (Kucha), Cao tăng truyện âm theo xưa gọi là Quy tư, (斫句迦國(舊曰沮渠); Chước-cú-ca (địa danh chưa được xác định. Julien âm là Tchakouka; Beal và Watters cho là thuộc địa phương Yarkiang; A. Stein cho là Kargilik hay Karghalik) Cao tăng truyện theo âm cũ là Trở-cừ, 佉沙國 (舊謂疏勒者) Nước Khư-sa (Kashgar) theo âm cũ là Sơ-lặc.

Từ những ký tải địa danh này, có thể nói, phần này Cao tăng truyện viết trước khi Tây vực ký được biên soạn.

Đại Đường nội điển lục, Đạo Tuyên soạn (Lân Đức 1, 664), cho biết nguyên cảo Tục cao tăng truyện, 1 bộ 30 quyển, sau đó viết tiếp phần sau gọi là Hậu tập Tục cao tăng truyện, 1 bộ 10 quyển. Nhưng đến Khai Nguyên Thích giáo lục (Trí Thăng soạn, Khai Nguyên 18, 730), chỉ ghi Tục cao tăng truyện 30 quyển, không nhắc đến Hậu tập Cao tăng truyện 10 quyển. Do đây có thể nói rằng, sau khi Huyền Tráng về nước, bắt đầu sự nghiệp phiên dịch mà Đạo Tuyên tham gia. Sau đó Tây vực ký được biên soạn, Đạo Tuyên có đầy đủ thông tin về những nước mà Huyền Trang đã kinh lịch, và bản thân cũng gần với Huyền Tráng cho đến ngày Pháp sư tịch, trải qua trên 30 năm, nên ghi chép những điều bản thân chứng kiến, cho đến năm Lân Đức 1 (664) tập thành 10 quyển phần sau của Tục cao tăng truyện. Về cuối đời, ba năm sau, Đạo Tuyên có thể sáp nhập hai bộ trước sau thành một bộ 30 quyển như Khai Nguyên lục ghi.

Đạo Tuyên tịch năm Càn Phong 2 (667, thọ 71 tuổi), trên 20 năm trước khi Pháp sư truyện bởi Huệ Lập và Ngạn Tông được lưu truyền, cho nên những thông tin trong truyện Huyền Trang trước khi Tây hành và sau khi về nước là những sự kiện mà bản thân Đạo Tuyên chứng kiến, mắt thấy tai nghe; đó là những sử liệu trung thực đầu tiên được biết đến.

Một tác phẩm khác, có tiêu đề 大唐故三藏玄奘師行狀 Đại Đường Cố Tam tạng Huyền Tráng sư hành trạng, 1 quyển, ấn hành trong Đại chánh No. 2052, không đề danh tác giả. Cuối truyện có ghi xuất xứ: “Minh Đức năm thứ 2, tháng tám, ngày (không rõ), sau khi cảm nhận bản ký tải này do Minh Tường soạn (v.v.). Đại Sư Phú Pháp truyện, văn hành trạng được dẫn dụng, đây và kia phù hợp, thật rất đáng trân trọng. Bên đây là lời ghi của Pháp ấn quyền Đại Tăng đô Hiền Bảo…”

Đại Tăng đô Hiền Bảo được nói đến đây có thể là Viện chủ đời thứ hai Viện Quán Trí chùa Đông Đại tự Todaiji (Mật tông Nhật bản), sinh hoạt trong khoảng hậu bán thế kỷ 14 dưới thời Nam Bắc Triều (Nhật Bản).

Xuất xứ bản truyện được thấy lưu hành trong niên hiệu Minh Đức 2, như dẫn trên. Có hai niên hiệu Minh Đức.

Thứ nhất, đó là niên hiệu của Cao tổ Hậu Thục Mạnh Tri Tường, và con là Hậu Thục Hậu chủ Mạnh Xưởng (934- 937). Thứ hai, Minh Đức (952), niên hiệu của Đoàn Tư Thông, Hoàng đế thứ tư của nước Đại Lý. Sự lưu truyền của Hành trạng trong vùng đất Tứ Xuyên, Vân Nam này chưa được biết rõ, nhưng có thể phỏng đoán, bản Hành trạng được một ai đó trong vùng đất này trong khoảng 934-952. Hiền Bảo Đại Tăng đô, sinh hoạt trong khoảng 1333-1338, dưới thời Nam Bắc triều Nhật Bản, hàng thứ hai trong chế độ Tăng quan, sau Đại tăng chánh (tương đương Tăng Thống Việt nam), tăng lữ Chân Ngôn tông, hệ Đông tự, tác giả nhiều tác phẩm về Mật giáo. Không rõ mối quan hệ giữa Hiền Bảo với sự lưu truyền Hành trạng mà sư có được và phát biểu là cảm kích với những ký sự trong đó.

Tuy được ấn hành trong Đại Chánh, nhưng không thấy được nhắc đến ở đâu trong các Kinh lục, hay các thư tịch Phật giáo Hán. Tác giả và niên đại được biết qua tư liệu về Pháp sư trong Huyền Tráng Tam tạng sư tư truyền tòng thư 玄奘三藏師資傳叢書, biên soạn bởi Tá Bá Định Dận 佐伯定胤 (Saeki Jōin, 1867-1952) và Trung Dã Đạt Huệ 中野達慧 (Nakano Tatsue, 1871-1934), nêu rõ là ()详撰 - Đường Minh Tường soạn.

Hành trạng chỉ chép truyện đến sau ngày Pháp sư tịch, ngày đưa tang, tất cả tăng ni trong kinh thành dựng tràng phan đưa đến mộ phần. Và kết thúc nói: “Những điềm thần dị báo hiệu sự kiện này, thật không cần thiết liệt kê hết ra đây.”

Có khá nhiều điểm tương đồng trong ba bản truyện với một ít xuất nhập. Điều đáng lưu ý, trong phần thân thế, ba bản truyện có một chi tiết khác nhau, cho phép suy đoán cả ba được viết độc lập không tham khảo lẫn nhau.

Ba bản truyện xem như được viết cùng thời, nhưng   sự lưu truyền nhân gian khó rõ trước sau. Trong đó, bản truyện trong Tục Cao tăng truyện có thể chỉ giới hạn trong giới Phật giáo. Trong hai bản kia, Hành trạng thấy được lưu truyền đâu đó trong khoảng Vân Nam, đất Hậu Thục hay Đại Lý, và có vẻ được biết đến ở Nhật Bản nhiều hơn là Pháp sư truyện.

Dù sao, ba bản truyện này đều được viết bằng Hán văn, và bản người Nhật sưu tập cũng bằng Hán văn. Trong khi đó, có một bản dịch bằng Hồi-hột văn 鹘文, tức văn tự của người Uighur mà ngày nay phiên âm chính thức là đọc theo Hán âm là Duy-ngô-nhĩ, được phát hiện tại Tân Cương năm 1930. Đây là bản dịch Hồi-hột văn dịch bởi 胜光 Pháp sư Thắng Quang từ Đại Đường Đại Từ Ân tự Pháp sư Huyền Trang truyện bởi Huệ Lập và Ngạn Tông.

Pháp sư Thắng Quang thuộc tộc Duy-ngô-nhĩ, sinh hoạt trong khoảng thế kỷ 10-11. Được biết Sư tinh thông Hán văn và Hồi-hột văn. Ngoài bản dịch Pháp Sư truyện, Sư còn một số bản dịch khác từ Hán văn sang Hồi-hột văn, Như Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh, từ bản Hán dịch của Nghĩa Tịnh. Có lẽ đây là bản dịch duy nhất, ngoài nguyên bản Hán, được lưu truyền ở Tây vực, cho đến khi các thừa sai khám phá Tây vực ký và truyền vào Âu châu qua các bản dịch Pháp và Anh.

Việt Nam cho đến thế kỷ XX mới biết đến cuộc tây hành cầu pháp của Pháp sư tương đối đầy đủ tuy không chi tiết qua tác phẩm nghiên cứu của Bhikkhu Thích Minh Châu y cứ trên bản truyện bởi Huệ Lập: Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar, Nava Nalanda Mahavihara 1961, bản dịch Việt, Thích nữ Trí Hải, Huyền Trang, nhà Chiêm bái và Học giả, Đại học Vạn Hạnh, 1966. Sách viết bằng Anh ngữ trong thời mà Pháp văn là ngôn ngữ thông dụng ở miền Nam, do đó không được phổ biến. Được biết đến rộng rãi trong giới Phật tử là qua tác phẩm Huyền Trang, viết bởi Võ Đình Cường, Hương đạo xuất bản 1960.

Trong thế giới phương Tây, do mục đích truyền giáo, các thừa sai La-mã đã khám phá Tây vực ký với những thông tin quý giá về lịch sử, địa lý, kinh tế văn hóa, của các nước từ Tây vực cho đến nội cảnh Ấn-độ bấy giờ, kể từ nửa sau thế kỷ XIX.

 

II.

Năm 643, sau Pháp hội Thành Khúc nữ (Kannauj), cuộc luận chiến do vua Giới Nhật (Śīlāditya) tổ chức (Pháp sư truyện quyển 5, Tây vực ký quyển 5), Pháp sư từ giã Ấn-độ, trở về bản quốc. Vượt Thông Lãnh, trải qua trên 30 nước; năm sau, 644, đến Vu-điền 于闐, tức là nước Cù-tát- đán-na trong Tây vực ký. Theo thỉnh cầu của Quốc vương Vu-điền, Pháp sư lưu lại đó một thời gian. Nhân đó, Pháp sư sai người tháp tùng đoàn thương nhân dâng sớ về triều, tạ tội vượt biên cảnh trái phép. Bấy giờ chư tăng nước Vu- điền thỉnh Pháp sư giảng luận Du-già, Đối pháp, Câu-xá, Nhiếp Đại thừa, thời gian trải qua 7, 8 tháng.

Trinh Quán năm thứ 19 (645), tháng Giêng, Pháp sư về đến kinh thành. Hôm sau, thiết đại hội ở phía nam Đường Châu tước, trưng bày các phẩm vật, kinh, tượng, mà Pháp sư mang từ Ấn-độ về.

Tháng hai năm ấy, Pháp sư yết kiến Đường Thái tông tại Kim Loan điện, Lạc Dương. Vua hỏi tình hình các nước trong biên cảnh Ấn-độ, Pháp sư tường thuật đầy đủ. Vua hứng thú, đề nghị Pháp sư ghi chép lại đầy đủ để lưu truyền hậu thế. Pháp sư phụng mệnh, tại Phiên kinh viện chùa Hoằng phước, biên soạn Tây vực ký, với sự chuyết văn bởi Biện Cơ, đến mùa thu năm sau (646) thì hoàn tất, dâng vua. (Nội điển lục).

Nguyên đề Tây vực ký được ấn hành trong Đại Chánh hiện tại dưới tiêu đề Đại Đường Tây vực ký, 12 quyển, Tam tạng Pháp sư Huyền Tráng phụng chiếu dịch, Đại Tổng trì tự Sa-môn Biện Cơ soạn. 大唐西域記三藏法師玄奘奉詔譯大總持寺沙門辯機撰.

Dịch, biên soạn, hay chuyết văn, đây thuộc vấn đề tác quyền, được phân tích chi tiết trong phần Dẫn nhập, đây không nhất thiết nói thêm.

Vấn đề tiếp theo, đáng lý nên nói trước: “phụng chiếu dịch”. Tất nhiên đây không thể hiểu là phiên dịch từ một nguyên bản Phạn nào đó. Nếu vậy, nó có nghĩa gì?

Một số học giả Trung quốc đề nghị giải thích như sau.

Trong niên hiệu Hiển Khánh dưới triều vua Đường Cao tông, nhân các đại thần Tiết Nguyên Siêu và Lý Nghĩa Phủ hỏi Pháp sư về sự nghiệp phiên dịch trong các đời do đâu mà được rực rỡ; Pháp sư đáp: “…Nội bộ gìn giữ xiển dương thì do Thích tử; ngoại hộ thiết lập thì thuộc về Đế Vương…” Và tường thuật các đời Phù Kiên, Dao Hưng, cho đến thời Trung quán, thảy đều do quân vương hỗ trợ. “Nay một mình tôi thì không thể được như vậy…”

Nhân đó, Cao Tông sắc cho các đại thần như Vu Chí Ninh, Lai Tế, Hứa Kỉnh Tông, Tiết Nguyên Siêu… thỉnh thoảng hãy đến hỗ trợ, nếu có chỗ nào chưa ổn thỏa thì nhuận sắc liền… Do sự nhuận sắc này, các bản văn từ dịch trường đều được ghi “phụng chiếu dịch”. Giải thích này khả dĩ chấp nhận được một phần, vì hầu hết các bản kinh luận từ Pháp sư đều ghi “phụng chiếu dịch”. Đây cũng là thông lệ cho một số trường hợp. Như Phóng quang Bát- nhã của Bồ-đề-lưu-chi, hay Đại trí độ luận của Cưu-ma- la-thập, đều ghi “phụng chiếu dịch”.

Tất nhiên cũng có ý kiến (Watters, On Xuan Chwang) cho rằng chính Pháp sư tự minh ghi lại mà không cần đến sự giúp đỡ của ai khác. Ý kiến này cũng đồng với ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu Trung hoa.

 

III.

Một số mục lục kinh điển, khởi đầu từ Nội điển lục, như được trích dẫn trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục, đã ghi như sau: 大唐西域記十二卷(內典錄貞觀二十年奉勅於弘福寺翻經院撰沙門辯機承旨綴緝秋七月絕筆), Đại Đường Tây vực ký, 12 quyển (xem Nội điển lục - năm Trinh Quán 20, vâng sắc chỉ vua soạn tại Phiên kinh viện chùa Hoằng Phước, Sa-môn Biện Cơ thừa chỉ chuyết tập, mùa thu, tháng 7 thì hoàn tất).

Nội điển lục tức Đại Đường Nội điển lục, là bản mục lục kinh điển soạn bởi Đạo Tuyên, hoàn tất năm 664. Trong đó nói 辯機承旨綴緝-Biện Cơ thừa chỉ chuyết tập, có thể được hiểu là chuyết (chuốt) văn và xâu kết lại, tức biên tập lại. Cũng có thể hiểu đây chỉ là chuyết văn đơn thuần.

Biện Cơ là một trong số chín vị Đại đức được vua Đường Thái Tông truyền chọn là những vị chuyết văn cho các bản dịch của Pháp sư. Thế nhưng, Biện Cơ lại sa vào một thảm án, dẫn đến họa diệt thân. Thảm kịch này có thể vì gây tai tiếng cho tông thất không ít nên không thấy được ghi chép trong Cựu Đường Thư. Nhưng nó được ghi chép trong Tân Đường Thư.

Tân Đường thư (quyển 83, Liệt truyện 8) ký tải câu chuyện tai tiếng này đến hai lần. Một, truyện Hợp Phố Công chúa 合浦公主, sau được phong là 高陽 Cao Dương, con gái thứ 17 của Đường Thái Tông. Thứ hai, chép phụ trong truyện 房玄齡 Phòng Huyền Linh (TĐT quyển 96, Liệt truyện 21), về người con trai thứ của ông là 遺愛 Di Ái.

Hai truyện này đều tường thuật khá chi tiết về chuyện tư thông của công chúa Cao Dương với tăng Biện Cơ. Chuyện xảy ra lúc nào không thấy ghi rõ. Chí có thể suy, năm Trinh Quán 22 (648) Công chúa được gả cho Phòng Di Ái. Năm đó cũng là năm được ghi nhận Biện Cơ chấp bút cho Pháp sư phiên dịch Thiên thỉnh vấn kinh 天請問經 (Khai nguyên lục, quyển 8). Sự nghiệp phiên dịch kinh điển của Pháp sư Huyền Tráng vẫn còn tiếp tục cho đến 16 năm sau mới tịch. Thế nhưng, sau năm vừa kể, không thấy nhắc đến Biện Cơ trong Phiên kinh viện; vậy sự việc xảy ra sau đó không lâu?

Truyện kể rằng, nhân khi Công chúa cùng với Di Ái đi săn, gặp Biện Cơ tại một thảo lư, trong phong ấp của công chúa, bèn vây màn trong thảo lư ấy 具帳其廬,與之亂 rồi cùng tư thông. Nói “vây màn trong thảo lư”, không thấy nói rõ thảo lư này của ai.

Thái Tông hay biết, nổi giận, giết Biện Cơ, giết luôn 10 nô tì đi theo Công chúa. Công chúa oán hận; sau khi vua băng, công chúa không tỏ một chút buồn.

Các nhà nghiên cứu sử Trung Hoa không thấy bác bỏ câu chuyện này, nhưng vẫn nêu một số hoài nghi.

Trong thời Đường, có hai vị danh tăng Huyền Tráng và Nhất Hành mà tiểu truyện đều được ghi trong Cựu Đường thư. Nhất Hành (683-727), truyền thừa Mật giáo trực tiếp từ Kim Cang Trí, được kể là một trong số các nhà thiên văn học lỗi lạc trong lịch sử thiên văn học Trung quốc. Tân Đường thư lược bỏ tiểu truyện hai vị danh tăng thời Đường này. Vả lại, Âu Dương Tu sinh sau cớ sự đó trên 300 năm, sự đồn đãi thị phi trong dân gian trung thực đến mức nào cũng khó đánh giá, vì ngoài câu chuyện được kể bởi Tân Đường thư, chưa thấy có tư liệu hay thư tịch nào nhắc đến.

Dù sao, bi kịch, hay chuyện ô danh, của Biện Cơ cũng đáng tin. Bởi vì, sau lần chấp bút cho ngài Huyền Trang dịch Thiên thỉnh vấn kinh, không còn thấy Biện Cơ chấp bút hay chuyết văn cho bản dịch nào thêm nữa, trong khi các vị khác, trong số chín Đại đức được tuyển chọn chuyết văn hay chấp bút, vẫn còn tiếp tục trong sự nghiệp phiên dịch. Các truyện ký về các Cao tăng trong thư tịch sử ký Phật giáo tuy vẫn nhắc đến những đóng góp đáng kể của Biện Cơ, nhưng không nơi nào ghi thành một bản tiểu sử riêng biệt như các vị Cao tăng khác.

 

IV.

Sự nghiệp mà Pháp sư để lại cho hậu thế, không chỉ các cộng đồng Phật giáo Á đông, mà cả những nước trải dài nối liền hai nền văn minh tối cổ của nhân loại, và cả một giai đoạn lịch sử của dân tộc Ấn-độ chưa từng được ghi chép. Những nước Tây vực, mặc dù ngày nay không tồn tại như một thực thể dân tộc độc lập; nhưng những ký tả trên các đoạn đường mà Pháp sư đã đi qua cho họ biết lịch sử dân tộc của mình với một quá khứ đáng tôn trọng. Sự nghiệp ấy không chỉ vĩ đại như thế, mà di sản văn hóa do Pháp sư lưu lại cho đến ngày nay không chỉ giới hạn trong các cộng đồng Phật giáo, mà còn phổ biến trong các giới học thuật, tư duy triết học, tín ngưỡng tôn giáo.

Kể từ khi đại học Nālandā, nơi mà trước đó bốn thế kỷ Pháp sư đã từng là một tăng lữ lưu trú tham cứu kinh điển, hoàn toàn bị thiêu hủy, kho tàng Thánh điển Phạn văn hầu như biến mất; cho đến thế kỷ 19, một số ít được phát hiện từ những di tích đổ nát bởi các nhà du khảo và khảo cổ. Số tìm lại được thật quá ít so với những gì đã mất mát. Thật là phước đức cho những người học Phật ngày nay, một số kinh điển trong số bị mất chưa tìm lại được nhưng đã được Pháp sư chuyển dịch Phạn Hán. Những bản dịch Phạn Hán này bao gồm các Kinh, các Luận điển và các Luận thư của các bộ phái, các hệ A-tì-đàm và Đại thừa, với các luận thuyết tâm lý học, siêu hình học hay hình nhi thượng, các hệ luận lý học từ luận lý hình thức cho đến luận lý biện chứng và siêu nghiệm. Đặc biệt khi mà tâm lý học tách rời với triết học, bằng các phương pháp luận, từ nội quan, thực nghiệm, cho đến phân tâm học, khoa học não, đã góp phần thực tiễn cho các khảo cứu tâm lý ứng dụng trong nhiều ngành học thuật, thăm dò những tầng sâu thẳm, uẩn áo trong các hoạt động của tâm thức, tìm ra những phương pháp tâm lý trị liệu, cùng với các trị liệu khác hầu mong chữa trị những căn bệnh thời đại, thời đại của những phát kiến khoa học ngoạn mục nhưng cũng chứa đầy những ưu tư, những bất an xã hội. Trong bối cảnh xã hội ấy, những bản dịch Phạn Hán của Pháp sư, đặc biệt là các nguồn Phạn bản từ A-tì-đàm cho đến Du-già hành hay Duy thức, là những nguồn tư liệu phong phú cho phép mô tả các hoạt động cũng như các hiện tượng tâm lý từ quá trình nhận thức khi tâm thức tiếp nhận kích thích ngoại giới dẫn đến nhận thức đúng hay sai, chánh kiến hay tà kiến, kéo theo hậu quả tư duy giáo điều, cố chấp, đa phần có kết quả đáng buồn, gây tổn hại cho chính mình, cho nhiều người, cho cộng đồng mà ta sống trong đó.

Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Tráng quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.

Đây là điều mà những vị đã góp công đức cho bản dịch được hoàn thành như mong ước. Mong ước rằng, những vị đọc bản dịch này cũng sẽ tìm thấy trong đây nguồn cảm hứng để từ đó tự mình tìm thấy con đường đi chân chính, vì an lạc cho chính mình, cho nhiều người, trong đời này và trong nhiều đời sau.

Nay kính giới thiệu.

Tuệ Sỹ

Phật lịch 2565

Mồng hai 2 tháng chạp năm Tân Sửu

Dương lịch: 04.01.2022

Read More »

Bài thuyết trình của Giáo sư Tiến sĩ Carola Roloff

 

(tức Ni Sư Jampa Tsedroen) trong Lễ Niệm Tứ Trng Ân 12/12/21 ti Chùa Viên Giác Hannover

Tiến sĩ Đỗ Quốc Bo dch Việt và Anh ngữ

Kính bch Hòa Thượng Thích Như Điển,

Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni,

Kính thưa quý quan khách,

Là một vinh dự lớn cho tôi khi được phép nói một vài lời chúc mừng và thuyết trình về vai trò ca Phật giáo trong chương trình ging dy ở những trường hc hôm nay.

Việc trao tặng Huân chương liên bang công huân cho Hòa Thượng Thích Như Điển đã khiến tôi rất vui mừng và tự hào. Theo như tôi được biết thì Hòa Thượng là tu sĩ Phật giáo đầu tiên tại CHLB Đức được chính phtôn vinh bằng danh dự tối cao này như một sự công nhận những công trng mà Hòa Thượng đã thực hiện vì lợi ích cộng đồng.

Theo quan điểm ca tôi thì việc trao tặng huân chương này rất xứng đáng - và quthật, là một điều nên được xúc tiến từ lâu rồi. Trước khi đi vào chủ đề Giáo dc ti Trường hc, tôi xin quý vcho phép tôi đi ngược dòng thời gian, trở về những kniệm mà chúng tôi đã cùng trải qua trong 40 năm qua và những mốc trm đặc biệt đã khắc sâu trong tôi. Tôi muốn trình bày những điểm này một cách riêng tư chút ít cùng với quá trình tiến triển chức nghiệp ca tôi.

Khi Hòa Thượng Thích Như Điển tnn tại Đức năm 1978 thì tôi vừa mới hoàn tất khoá huấn luyện chức nghiệp (Fachschulausbildung) và bắt đầu một năm công tác xã hội thiện nguyện trong một bệnh viện Tin Lành ti Holzminden - về Phật giáo thì lúc ấy tôi chẳng biết gì c; trong trường hc thì Phật giáo đã chỉ xuất hiện một cách thu ngắn trong giờ Địa lí trong khung cnh Á châu.

Tôi đến với Phật pháp vào năm 1980, và vào ngày 22.09.1981 thì tôi đã được thgiới Sa-di-ni (śramaṇerikā) từ Geshe Thubten Ngawang ti Trung Tâm Tây Tng (Tibetisches Zentrum). Một thời gian ngắn sau đó, vào tháng 11 năm 1981, thì Hòa Thượng Thích Như Điển và chùa Viên Giác, qua sự giới thiệu bởi một cặp vợ chồng người Đức ti Hannover (Karl và Sigrid Rumpf) đã là chnhà cho những buổi thuyết pháp ca một vị Thượng sư Tây Tạng, Kyabje Song Rinpoche. Cùng với những người tùy tòng ca ngài, chúng tôi đã trú li chùa - khi ấy còn dưới dng nhà kho ca một xí nghiệp - và nếu tôi nhớ không lầm thì cuối tuần lễ đó Christof Spitz, phiên dch viên của Đức Đạt-li Lt-ma đã được thgiới Sa-di mà không dự bị trước. Và qua đó, chúng tôi đã chứng kiến được tấm lòng hiếu khách đặc biệt của người Việt.

Kính thưa Hòa Thượng Thích Như Điển, vào năm 1982 Hòa Thượng và Tăng Ni chúng (Việt Nam) ca Hòa Thượng đã có mặt ti Audimax của Đại học Hamburg khi Đức Đạt-li Lt-ma đã thuyết trình và ging dy công khai - với 1700 người đã đến tham dự. Trong nhà hàng ca quán Lư Sơn (Logenhaus) thì Hòa Thượng cùng với Tăng Ni chúng cũng đã dự buổi cơm trưa cùng với Đức Đạt-li Lt-ma. Trong những năm tiếp theo đó, năm nào chúng tôi cũng được Hòa Thượng mời tham dự lễ Vesakh.

Tháng 12 năm 1985, tôi sang Đài Loan để thgiới ctúc T-khâu-ni (Bhikuṇī). Sau khi trở về thì ba năm kế đến tôi là T-khâu-ni duy nhất sống cùng với những T-khâu (Bhiku) ti Trung Tâm Tây Tng. Truyền thống Phật giáo Tây Tng không có kinh nghiệm với T-khâu-ni đã thụ giới ctúc, và khi có những câu hi về việc ứng xử như thế nào trong sinh hot hằng ngày, ví dụ như ngồi theo trật tự thứ bậc ra sao thì sư phụ tôi, Geshe Thubten Ngawang đã nói rằng, chúng ta cứ hi Hòa Thượng Thích Như Điển và làm y theo truyền thống Việt Nam.

Cũng vào khoảng thời gian này, Hòa Thượng Thích Như Điển đã cho chúng tôi xem một bn vthiết kế và trình bày một công trình khi chúng tôi đến viếng chùa. Lúc ấy có một cuộc quyên tiền (fundraising) để xây dựng ngôi chùa. Phí dng được dự tính là 6 triệu mác Đức. Tiểu bang Niedersachsen đã hứa là nếu cộng đồng người Việt đảm nhận được phân nửa chi phí được thì chính quyền tiểu bang Niedersachsen sẽ đảm nhận nửa phần còn li. Lòng quyết tâm ca Hòa Thượng Thích Như Điển làm tôi nhớ đến đại nguyện đạt giác ngộ vì lợi ích ca tất cchúng sinh ca một vBồ Tát. Hòa Thượng đã phát nguyện, một lời nguyện vốn luôn đứng đầu một công trình như thế này, và không lâu sau, mục đích cao cả này đã được thành đạt. Việc tiểu bang Niedersachsen có giữ lời hứa và thật sự chi phân nửa còn li hay không thì tôi không biết được, và cũng không biết được là chi phí đã vượt hơn dự tính hay không.

Sự thật là trong năm 1987, công trình xây dựng chùa đã khởi công. 1991 thì lễ khánh thành chùa đã được tổ chức. Năm này cũng là năm mà Đức Đạt-li Lt-ma đã viếng thăm Hamburg lần thứ hai, và cuộc viếng thăm lần này được tổ chức ti Congress Centrum Hamburg với 5000 người tham dự. Và cũng nhân dịp này - dưới sự tán trợ ca nhà Vật lí hc và Triết gia Carl Friedrich von Weizsäcker, người anh ca Tổng thống Đức thời ấy - Hòa Thượng đã cùng với Tăng chúng của Hòa Thượng đã ngồi cùng với Đức Đạt-li Lt-ma trên khán đài. Mặc dù rất bận rộn nhưng Hòa Thượng đã thu xếp thời gian để cùng đến tham dự, là một vinh dự cho chúng tôi.

Đức Đạt-li Lt-ma viếng thăm chùa của Hòa Thượng lần đầu vào năm 1995. Vào năm 2007 Hòa Thượng cũng đã tham dự hội nghca các T-khâu-ni tại Đại hc Hamburg. Hòa Thượng đã cùng với Hòa Thượng Thích Qung Ba (Úc) và Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm đã dùng cơm trưa cùng với Đức Đạt-li Lt-ma và Hòa Thượng đã ngồi chung bàn với ngài.

 

Lần viếng thăm thứ hai ca Đức Đạt-li Lt-ma đã xảy ra ti chùa năm 2013. Trước đó Đức Đạt-li Lt-ma đã thăm các trường hc Đạo đức quốc tế (Weltethosschulen) ở Steinhude và đã đàm luận với hàng trăm học sinh về hoà bình và bất bạo động, vượt qua các ranh giới tôn giáo. Cuộc đàm thoại đã xoay quanh những giá trchung của con người thuộc những tôn giáo và phi tôn giáo khác nhau.

Và bây giờ tôi muốn đi đến phần thứ hai, đó là vai trò ca Phật giáo ở những trường học Đức.

Hòa Thượng Thích Như Điển thời còn trti Nhật Bn không những đã học Phật hc mà còn hc ngành Giáo dc và vì vậy mà tôi tin rằng, trong lĩnh vực này Hòa Thượng có thể trở thành một nhân vật chchốt cho Phật giáo tại Đức. Tôi biết là Hòa Thượng đã làm việc nhiều, mệt mi và muốn rút lui chút ít, nhưng trong sự việc này thì chúng tôi li cần sự hỗ trợ, sự điều gii của Hoà Thượng!

Trong bốn thập niên qua, chúng ta thnh thoảng có đàm thoại về

- việc đào tạo Tăng Ni,
- về việc ging dy Phật giáo cho trem và thiếu niên và về - ý định thành lập một Đại hc Phật giáo

Tôi nghĩ rằng hiện nay chúng ta đã đến một mốc ngoặc quyết định: Nhiều người trong quý vcó gốc Việt Nam, nhưng đồng thời là công dân Đức quốc. Tôi không biết cuộc sống giữa hai nền văn hoá là như thế nào. Quý vtự xem mình là Phật tử Việt Nam, hay là Phật tử Đức quốc? Điều quan trọng đối với tôi là những người trẻ không đánh mất mối quan hệ với Phật giáo và có thể phát triển một khía cạnh nào đó có thể được gọi là tính đồng nhất ca Phật giáo.

Hòa Thượng Thích Như Điển lúc tiếp nhận huy chương vào ngày thứ tư vừa qua trong toà thị chính đã so sánh một cách tuyệt vời Phật giáo với một đóa hoa, một hoa sen thêm vào vườn hoa tôn giáo Đức quốc và nhấn mnh vẻ đẹp ca tất cả loài hoa trong vườn này. Bộ Ngoi giao ti Berlin cũng rất quan tâm đến việc phát hiện và xúc tiến tiềm năng to hoà bình ca các tôn giáo.

4

Giáo dc hoà bình và tu tập chính niệm và đồng cm là những chủ đề mà Phật giáo có thể góp phần với nhiều thành phần lấy từ kho báu sẵn có. Những thành phần này sẽ giúp đỡ trem và thanh thiếu niên, không chPhật tử.

Ti Hamburg có một giờ học tôn giáo đặc biệt được gọi là “Tôn giáo cho mọi người”. Ở đây, trong bang Niedersachsen thì người ta có một đề cương khác. Gia-tô và Tin Lành giáo vừa đây đã quyết định là slập ra giờ Giáo dc tôn giáo hợp tác. Từ lớp 5 đến lớp 10 còn có giờ hc các quy tắc (Normen) và giá tr(Werte) xã hội song song. Câu hi ở đây là những trem Việt Nam ở Niedersachen, Hamburg, Berlin v.v. làm gì. Chúng hc về tôn giáo của mình cũng như những tôn giáo khác ở đâu? Khả năng ứng xử tôn giáo của các cháu được hổ trợ đến mức độ nào?

Ở Hamburg, trong năm tới Phật giáo cũng sẽ có mặt trong khung sườn chương trình dạy chi tiết như những tôn giáo khác. Nhưng hiện nay Phật giáo chúng ta không có những giáo viên dy môn hc này. Khác với Áo quốc, Đức quốc không đào tạo giáo chức riêng cho Phật giáo. Hiệp hội Cộng đồng Phật giáo Hamburg (Buddhistische Religionsgemeinschaft Hamburg) rất nỗ lực để đảm nhận trách nhiệm giáo dc tôn giáo cho tất chc sinh. Vào giữa tháng 11 tại Đại hc Hamburg cá nhân tôi cùng với sự cộng tác ca Liên Hội Phật Giáo Đức Quốc (DBU = Deutsche Buddhistische Union) đã tổ chức một cuộc Hội nghị Chuyên đề. Sở Giáo Dc (Schulbehörde) cho rằng, đơn xin đầu tiên ca Cộng đồng Phật giáo Hamburg, một tổ chức đứng đầu (Dachverband) quy ttám tổ chức Phật giáo hiện nay, đang được chnh sửa và gởi li. Trong những cuộc đối thoại thì người ta thường hi rằng người Việt ở đâu sao không thấy. Có vẻ như là ti khu Hamburg-Wandsbek cũng như St. Georg có khá nhiều trem Việt Nam hc ở những trường hc. Điều ấy có ngha rằng, chúng tôi rất cần sự tham gia và hỗ trợ ca quý v!

Ông Thị trưởng thành phố Hannover đã nói vào hôm thứ tư (ngày trao huân chương) vừa qua, rằng việc tham dự các buổi hc tôn giáo ca Phật tử cũng là một điều quan trng ti bang Niedersachsen. Sự việc stốt đẹp nếu như chúng ta cộng tác trên bình diện liên bang cũng như địa phương và chúng ta cùng nhau kéo sợi dây thừng ấy về cùng một phía. Việc được công nhận là một Đoàn thể công pháp (Körperschaft des öffentlichen Rechts = KöR) không nhất định là tối cần cho việc cho phép dạy giáo lý trong trường hc, nhưng điều ấy có thể gin hoá quá trình tiến triển.

Liên Hội Phật Giáo Đức Quốc (DBU), Chi Bộ GHPGVNTN tại Đức Quốc cũng như Hội Phật Tử Việt Nam TNn tại CHLB Đức đã đề đơn xin được công nhận là Đoàn thể công pháp (KöR) vào năm 1984 ở hai tiểu bang Niedersachsen và Baden-Württemberg - nhưng tiếc rằng chai tổ chức này đã không được công nhận như vậy trong dp đề cử này.

Trong thời gian qua, cnh sắc tôn giáo tại Đức quốc đã thay đổi. Cnh sắc đã trở nên đa dạng, đa sắc hơn. Các tôn giáo không thuộc Thiên Chúa giáo như Bahai và Aymadia hiện đã được công nhận là Đoàn thể công pháp. Phật giáo là một tôn giáo quốc tế, sau Hồi giáo thì Phật giáo một tôn giáo lớn thứ hai trong những tôn giáo không thuộc Thiên Chúa giáo tại Đức quốc. Tôi cho rằng, sự việc quan trng ở đây là cùng đảm nhận trách nhiệm và cùng nhau nỗ lực để có được sự công nhận này.

Tôi tin tưởng rằng, cũng như ở Áo và Na Uy, chúng ta sẽ làm được nếu chúng ta hợp lực.

Tôi tự hi: Làm thế nào để con em quý vcó thể tiếp xúc với Phật giáo được? Chúng biết về Phật giáo nhiều như thế nào và chúng có thể đạt những kỹ năng gì, và đạt được ở đâu, như thế nào trong lĩnh vực này.

5

Tại Đức quốc - khác những nước khác, ví dụ như tại Pháp quốc việc giáo dc tôn giáo không những được thực hiện trong gia đình và từ các cộng đồng tôn giáo, mà còn tại trường hc. Những công trình nghiên cứu khoa hc cho thấy rằng, phần lớn thiếu niên từ 14 đến 16 tuổi được tiếp cận không chỉ trong gia đình nữa, mà qua trường lớp và những nhóm bn đồng trang lứa (peer groups). Ở lứa tuổi này thì con người ta thường định hướng cho con đường tôn giáo/tinh thần về sau.

Khác với Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, cho đến nay tại Đức quốc không có cơ hội để hc trở thành một thầy giáo dy Phật giáo hoặc tham dự một chương trình Thần hc chuyên về Phật giáo ở một Đại học để sau này có thể làm việc, ví dụ như người trliệu tâm linh (Seelsorger) chuyên nghiệp trong những cộng đồng.

Giáo dc tôn giáo (Religionsunterricht) và trliệu tâm linh (Seelsorge) là hai lĩnh vực mà Phật tử có thể góp phần nhiều có lợi ích công chúng - chúng ta cần những Phật tử tr- không được đào tạo ở Á châu, mà là chính ở đây, ở CHLB Đức này. Tôi nghĩ rằng, không có người Việt như cộng đồng Phật tử lớn nhất theo nhân chng tại Đức thì chúng ta khó tiến bước trong việc này. Chúng tôi cần kiến thức chuyên môn ca Hoà Thượng! Đây là lời thnh cầu ca tôi: xin Hòa Thượng giúp gầy dựng Phật pháp kiên cố như xưa nay tại Đức quốc, và cũng ngay ở những tổ chức đào tạo (Bildungseinrichtung) và trong lĩnh vực trliệu tâm linh (Seelsorge) ở những bệnh viện, trong việc tiếp dẫn người bệnh nặng, cận tử (Hospiz-Arbeit), trong nhà tù và trong quân đội.

[Đỗ Quốc-Bo phiên dch từ Đức ngữ].

---

Speech by Dr. Carola Roloff (Bhikuṇī Jampa Tsedroen) - Thich Nhu Dien ceremony, 12/12/2021

Venerable Thich Nhu Dien,
Dear brothers and sisters in the Dharma, special guests,

It is a great honour for me to say a few words of congratulations and something about the role of Buddhism in teaching in state schools.

The Order of Merit award to the Most Venerable Thich Nhu Dien fills me with great joy and pride. To my knowledge, he is the first Buddhist monk in Germany to be awarded this highest honour by the FRG in recognition of his services to the common good.

Highly deserved in my view - and indeed “long overdue.” Before I turn to the subject of teaching in schools, let me go back a little in the memory of our common 40-year history and tell you about some stages that have remained particularly memorable to me. I want to keep this a little more personal, linked to my career:

6

When Venerable Thich Nhu Dien found asylum in Germany in 1978, I finished my technical school education and started a voluntary social year in the Protestant hospital in Holzminden. At that time, I knew nothing about Buddhism. At school, it had only been mentioned briefly in geography lessons in the context of Asia.

I came to Buddhism in 1980 and was ordained as a novice (śramaṇerikā) by the Venerable Geshe Thubten Ngawang in the Tibetan Centre Hamburg on 22 September 1981. Shortly after that, in November 1981, the Venerable Thich Nhu Dien and Vien Giac Pagoda hosted Buddhist teachings by the high Tibetan dignitary Kyabje Song Rinpoche for a week through the mediation of a German couple in Hanover (Karl and Sigrid Rumpf). Together with his entourage, we stayed for a week in the pagoda. At that time still a kind of factory building. If I remember correctly, the novice ordination of Christof Spitz, the German translator of His Holiness the Dalai Lama, even took place spontaneously in the pagoda at the end. Thus we were able to witness exemplary Vietnamese hospitality.

In 1982 you, Venerable Thich Nhu Dien, and your order were present at the first visit of H. H. Dalai Lama. You joined his public lectures and teachings in the Audimax of the University of Hamburg - 1,700 participants attended. You and your monks and nuns participated in a lunch with H.H. Dalai Lama in the restaurant of the Lodge House. We were regularly invited to your Vesakh Festival in Hanover in the following years.

Then in December 1985, I went to Taiwan for my highest ordination to the Bhikuṇī. For another three years after my return, I was the only nun living alone among monks in the Tibetan Centre. The Tibetan tradition had no experience with fully ordained nuns. Whenever there were questions about how to do this in practice, for example, with the seating arrangement, my teacher Geshe Thubten Ngawang would say, “We'll ask the Venerable Thich Nhu Dien and follow the Vietnamese tradition.”

Around this time, the Venerable Thich Nhu Dien showed us a construction drawing and presented a project during a visit to the pagoda. There was fundraising for the construction of a pagoda. The costs were estimated at 6 million Deutsch Mark. It seems that the state of Lower Saxony had promised that if half of the expenses were borne by the Vietnamese community, the state of Lower Saxony would pay the other half. The determination of Venerable Thich Nhu Dien reminded me of a bodhisattva's determination to attain enlightenment for the benefit of all living beings. The Venerable had made the firm resolve that is always at the beginning of such an undertaking. Soon you achieved the great goal accordingly. I cannot say whether the state of Lower Saxony kept its promise, and half of it came from there, nor whether the costs were not higher after all.

The fact is, the construction of the pagoda began in 1987. The inauguration of the pagoda took place in 1991. That was the same year when the second visit of H. H. Dalai Lama took place in Hamburg, in the Congress Centrum Hamburg with 5,000 participants. Also, on this occasion ‒ under the patronage of the physicist and philosopher Carl Friedrich von Weizsäcker, the brother of the then Federal President ‒ you and your monks and nuns sat on stage together with H.H. the Dalai Lama. Although you had so much to do yourself, you took the time and gave us the honour to be there.

7

Then in 1995, the first visit of H.H. the Dalai Lama took place in your pagoda. In 2007 you were also present at the Nuns’ Congress at the University of Hamburg. You, Venerable Thich Quang Ba from Australia and also Ven. Nun Thich Nu Dieu Tam attended a lunch with H.H. Dalai Lama, and you sat at the same table with him.

8

The second visit of H.H. Dalai Lama to the pagoda took place in 2013. Before that, the Dalai Lama had visited the Global Ethic Schools (Weltethosschulen) in Steinhude and discussed peace and non-violence with hundreds of students, also across religious boundaries. It was about the shared values of people of different religions and non-religions.

And with that, I would like to move on to the second part, the role of Buddhism in German schools:

In his younger years in Japan, the Venerable Thich Nhu Dien studied Buddhism and education. Therefore, I believe that he can become a key figure for Buddhism in Germany in this field. I know you have already worked a lot, you are tired and would like to retire a little more, but in this matter, we need your support once again, your mediation!

During the last 40 years, we have had discussions from time to time about - the education of monks and nuns,
- the teaching of Buddhism to children and young people.
- the idea of a Buddhist university.

I think we have now reached a decisive turning point: many of you have Vietnamese roots but are also German citizens.

I don't know what it’s like to live between two cultures. Would you describe yourself as Vietnamese Buddhists or as German Buddhists? It seems essential that young people don’t lose contact with the Buddhist religion and develop something like a Buddhist identity.

9

The Venerable Thich Nhu Dien compared Buddhism in a beautiful way to another flower, a lotus for the religious garden of Germany, and emphasised the beauty of all the flowers in this garden. The Foreign Office in Berlin is also very interested in discovering and promoting the peace potential of religions.

Peace education and the practice of mindfulness and compassion are subject areas to which Buddhism could contribute much from its excellent treasure chest. These treasures would help all children and young people, not only Buddhists.

In Hamburg, a unique way of religious education exists. It is called “Religious Education for All.” Here in Lower Saxony, you have a different concept. The Protestant and Catholic churches have recently decided to offer cooperative religious education in the future. In parallel, there is teaching Norms and Values from grade 5‒10. The question is, what are Vietnamese children doing in Lower Saxony, Hamburg, Berlin, etc.? Where do they learn about their religion and other religions? To what extent is their religious responsiveness promoted?

In Hamburg, Buddhism is mentioned just as extensively as the other religions in the new framework curricula that will come into force next year. But Buddhists cannot become teachers for religious instruction at the moment. Unlike in Austria, there is no teacher training for the Buddhist religion. The Buddhist religious community in Hamburg is very committed to co- responsibility for religious education for all. In mid-November, a symposium took place at the University of Hamburg, organized together with the German Buddhist Union. The school authorities assume that an initial application by the Buddhist Religious Community of Hamburg, an umbrella organization of currently eight member communities, will be revised and resubmitted. During the discussions, people keep asking where the Vietnamese are. There are relatively many Vietnamese children at school in the Hamburg districts Wandsbek and St. Georg. That means we need your participation and support!

On Wednesday, the mayor of Hanover said that Buddhist participation in religious education is also an important one in Lower Saxony. It would be good if we worked together nationally and locally and pulled in the same direction. Recognition as a public corporation (Körperschaft des öffentlichen Rechts, KöR) is not necessary for the provision of religious education but would probably simplify the process.

The German Buddhist Union (DBU) and the Congregation of the United Vietnamese Buddhist Church and Association of Vietnamese Buddhist Students and Vietnamese in the FRG applied for recognition as KöR in Lower Saxony and Baden-Württemberg in 1984. Unfortunately, neither organisation succeeded in being recognised on its own at the first attempt.

In the meantime, the religious landscape in Germany has changed. The landscape has become more diverse, more colourful. Non-Christian religions like the Bahai and the Aymadia now have KöR status. Buddhism is a world religion. After Muslims, it is the next largest non- Christian religion in Germany. I think it is essential to take responsibility and work together for recognition.

I am confident that, similar to Austria and Norway, we could achieve it with united forces in Germany.

10

I ask myself: How do your children come into contact with Buddhism? How much do they know about it and what skills do they acquire in this area, how and where?

Unlike in France, religious education in Germany, for example, occurs not only at home, and in the community, but also at school. Scientific studies show that 14-16-year-olds are no longer reached primarily at home but through school and peer groups. They usually decide which religious/spiritual path to take at this age.

In contrast to Christianity, Judaism, and Islam, in Germany, Buddhists cannot train as a religion teacher or study Buddhist “theology,” for example, to become professionally involved as a chaplain in the communities.

Religious education and pastoral care are two big fields in which Buddhists can contribute a lot to the common good ‒ we need young Buddhists ‒ not trained in Asia, but here in Germany. Without the Vietnamese as the largest ethnic Buddhist community in Germany, it will be challenging to tackle this. We need your expertise! That is my request: Help to continue to establish the Dharma in Germany firmly, also at educational institutions and in pastoral care in hospitals, in hospice work, in prisons, and the military.

[English translation by Quoc-Bao Do, slightly revised and authorised by the author.]

---

(Original in Deutsch)

Ansprache Dr. Carola Roloff (Bhikuṇī Jampa Tsedroen), Zeremonie Thich Nhu Dien, 12.12.2021

Hochehrwürdiger Thich Nhu Dien,
liebe Brüder und Schwestern im Dharma, verehrte Gäste,

es ist mir eine große Ehre, einige Gratulationsworte und etwas über die Rolle des Buddhismus im Unterricht an staatlichen Schulen sagen zu dürfen.

Die Verleihung des Bundesverdienstkreuzes an den Hochehrwürdigen Thich Nhu Dien erfüllt mich mit großer Freude und großem Stolz. Meines Wissens ist er der erste buddhistische Mönch in Deutschland, dem die BRD diese höchste Auszeichnung als Anerkennung der Verdienste um das Gemeinwohl ausspricht.

Aus meiner Sicht hochverdient – und in der Tat „längst überfällig“ – Ehe ich auf das Thema Unterricht an Schulen zu sprechen komme, lassen Sie mich etwas in der Erinnerung unserer gemeinsamen 40-jährigen Geschichte zurückgehen und von einigen Stationen berichten, die

11

mir besonders einprägend in Erinnerung geblieben sind. Ich möchte das etwas persönlicher halten, verknüpft mit meinem eigenen Werdegang:

Als der Ehrw. Thich Nhu Dien 1978 in Deutschland Asyl fand, war ich gerade mit meiner Fachschulausbildung fertig und begann ein freiwilliges soziales Jahr im evangelischen Krankenhaus in Holzminden vom Buddhismus wusste ich zu dieser Zeit nichts, in der Schule war er nur kurz im Erdkunde-Unterricht im Kontext Asien vorgekommen.

1980 kam ich zum Buddhismus, bereits am 22. September 1981 wurde ich im Tibetischen Zentrum Hamburg von dem Hochehrwürdigen Geshe Thubten Ngawang zur Novizin (śramaṇerikā) geweiht. Kurz danach im November 1981 waren der Ehrw. Thich Nhu Dien und die Pagode Vien Giac auf Vermittlung eines deutschen Ehepaars in Hannover (Karl und Sigrid Rumpf) eine Woche lang Gastgeber buddhistischer Unterweisungen des hohen tibetischen Würdenträgers Kyabje Song Rinpoche. Zusammen mit seiner Begleitung wohnten wir eine Woche in der Pagode damals noch eine Art Fabrikhalle und wenn ich es recht entsinne, fand am Schluss sogar noch spontan die Novizordination von Christof Spitz, dem deutschen Übersetzer S.H. Dalai Lama in der Pagode statt. So durften wir Zeuge vorbildlich gelebter großer vietnamesischer Gastfreundschaft werden.

1982 waren Sie Hocherhwürdiger Thich Nhu Dien und Ihre Ordensgemeinschaft beim ersten Besuch S.H. Dalai Lama und bei seinen öffentlichen Vorträgen und Unterweisungen im Audimax der Universität Hamburg dabei 1.700 Teilnehmer:innen kamen. Im Restaurant des Logenhaus haben Sie und Ihre Mönche und Nonnen an einem Mittagessen mit S.H. Dalai Lama teilgenommen. In den folgenden Jahren waren wir regelmäßig zu Ihrem Vesakhfest in Hannover eingeladen.

Im Dezember 1985 ging ich dann für meine höchste Weihe zur Bhikuṇī nach Taiwan. Nach meiner Rückkehr war ich noch für weitere drei Jahre die einzige Nonne, die allein unter Mönchen im Tibetischen Zentrum lebte. Die tibetische Tradition hatte keine Erfahrung mit voll ordinierten Nonnen, und wann immer es Fragen gab, wie das ganz konkret in der Praxis geht, z.B. mit der Sitzordnung, sagte mein Lehrer Geshe Thubten Ngawang, da fragen wir einfach den Ehrw. Thich Nhu Dien und orientieren uns an der vietnamesischen Tradition.

Etwa in dieser Zeit war es dann auch, dass der Ehrw. Thich Nhu Dien uns bei einem Besuch in der Pagode eine Bauzeichnung zeigte und ein Projekt vorstellte. Es gab ein Fundraising für den Bau einer Pagode. Die Kosten wurden auf 6 Mio. DM geschätzt. Das Land Niedersachsen hatte wohl zugesagt, wenn die Hälfte der Kosten von der vietnamesischen Gemeinde getragen wird, übernimmt das Land Niedersachsen die andere Hälfte. Die Entschlossenheit des Ehrw. Thich Nhu Dien erinnerte mich an den Entschluss eines Bodhisattva, zum Wohl aller Lebewesen die Erleuchtung zu erlangen. Der Ehrw. hatte den festen Entschluss gefasst, der für solch ein Unternehmen immer am Anfang steht, und schon bald war das große Ziel entsprechend erreicht. Ob das Land Niedersachsen sein Versprechen eingelöst hat und tatsächlich die Hälfte von dort kam, kann ich nicht sagen, auch nicht, ob die Kosten nicht doch höher waren.

Tatsache ist, schon 1987 begann der Bau der Pagode. 1991 fand die Einweihung der Pagode statt. Das war dasselbe Jahr, in dem in Hamburg der zweite Besuch S. H. Dalai Lama stattfand, diesmal im Congress Centrum Hamburg mit 5.000 Teilnehmer:innen. Auch bei diesem Anlass unter der Schirmherrschaft des Physikers und Philosophen Carl Friedrich von Weizsäcker, dem Bruder des damaligen Bundespräsidenten saßen Sie und Ihre Mönche und Nonnen

12

zusammen mit S.H. Dalai Lama auf der Bühne. Obwohl sie selbst so viel zu tun hatten, haben Sie sich dafür die Zeit genommen und uns die Ehre gegeben, dabei zu sein.

1995 fand dann der erste Besuch S.H. Dalai Lama in Ihrer Pagode statt. Auch 2007 waren Sie beim Nonnenkongress an der Universität Hamburg dabei. Sie, der Ehrw. Thich Quang Ba aus Australien und auch die Ehrw. Nonne Thich Nu Dieu Tam nahmen an einem Mittagessen mit S.H. Dalai Lama teil und Sie saßen mit ihm an einem Tisch.

13

Ein zweiter Besuch S.H. Dalai Lama in der Pagode fand 2013 statt. Zuvor hatte der Dalai Lama die Weltethosschulen in Steinhude besucht und mit Hunderten von Schülerinnen und Schülern über den Frieden und Gewaltlosigkeit diskutiert, auch über die Grenzen der Religionen hinweg. Es ging um gemeinsame Werte von Menschen verschiedener Religionen und Nicht-Religionen.

Und damit möchte ich überleiten auf den zweiten Teil, die Rolle des Buddhismus an deutschen Schulen:

Der Ehrw. Thich Nhu Dien hat in seinen jungen Jahren in Japan nicht nur Buddhismuskunde, sondern auch Erziehungswissenschaft studiert, und deshalb glaube ich, dass er in diesem Bereich für den Buddhismus in Deutschland zu einer zentralen Schlüsselfigur werden kann. Ich weiß, Sie haben schon viel gearbeitet, sind müde und würden sich sehr gern etwas mehr zurückziehen, aber in dieser Sache benötigen wir noch einmal Ihre Unterstützung, ihre Vermittlung!

Während der letzten 40 Jahre haben wir zwischendurch immer mal wieder Gespräch geführt über

- die Ausbildung von Mönchen und Nonnen,

- den Buddhismus-Unterricht für Kinder und Jugendliche und über

- die Idee einer buddhistischen Universität.

Ich denke, jetzt sind wir an einem entscheidenden Wendepunkt angekommen: viele von Ihnen haben vietnamesische Wurzeln, aber sind zugleich deutsche Staatsbürger:innen.

Ich weiß nicht, wie es ist, zwischen zwei Kulturen zu leben. Würden Sie sich eher als vietnamesische Buddhisten oder als deutsche Buddhisten bezeichnen? Wichtig scheint mir, dass die jungen Menschen den Kontakt zur buddhistischen Religion nicht verlieren und so etwas wie eine buddhistische Identität entfalten können.

14

Der Ehrw. Thich Nhu Dien hat am Mittwoch im Rathaus bei der Ordensverleihung auf ganz wunderbare Weise den Buddhismus mit einer weiteren Blume, einem Lotos für den religiösen Garten Deutschlands verglichen und dabei die Schönheit aller Blumen in diesem Garten betont. Auch das Auswärtige Amt in Berlin ist sehr daran interessiert, das Friedenspotenzial der Religionen zu entdecken und zu fördern.

Friedenserziehung und die Übung von Achtsamkeit und Mitgefühl sind Themenbereiche, zu denen der Buddhismus Vieles aus seiner großen Schatztruhe beisteuern könnte. Das würde allen Kindern und Jugendlichen helfen, nicht nur Buddhist:innen.

In Hamburg gibt es einen besonderen Religionsunterricht den sogenannten „Religionsunterricht für Alle“. Hier in Niedersachsen, haben Sie ein anderes Konzept. Die evangelische und die katholische Kirche haben sich kürzlich entschieden, künftig einen kooperativen Religionsunterricht zu erteilen. Parallel gibt es von Klasse 5-10 den Unterricht Normen und Werte. Die Frage ist, was machen vietnamesische Kinder in Niedersachen, Hamburg, Berlin usw. Wo lernen sie etwas über ihre und über andere Religionen? Inwieweit wird ihre religiöse Ansprechbarkeit gefördert?

In Hamburg kommt der Buddhismus in den neuen Rahmenplänen, die nächstes Jahr in Kraft treten, ebenso ausführlich vor wie die anderen Religionen. Aber Buddhist:innen können derzeit keine Religionslehrer:innen werden. Es gibt anders als in Österreich keine Lehramtsausbildung für buddhistische Religion. Die Buddhistische Religionsgemeinschaft Hamburg setzt sich sehr dafür ein, den Religionsunterricht für alle mitzuverantworten. Mitte November fand dazu eine Fachtagung an der Universität Hamburg statt, die ich in Kooperation mit der Deutschen Buddhistischen Union organisiert habe. Die Schulbehörde geht davon aus, dass ein erster Antrag der Buddhistischen Religionsgemeinschaft Hamburg, ein Dachverband von derzeit acht Mitgliedsgemeinschaften, überarbeitet und noch einmal neu eingereicht wird. Bei den Gesprächen wird immer wieder nachgefragt, wo denn die Vietnamesen sind. Es scheint, dass es in Hamburg-Wandsbek, aber auch in St. Georg relativ viele vietnamesische Kinder in der Schule gibt. Das heißt, wir brauchen Ihre Beteiligung und Unterstützung!

Der Oberbürgermeister von Hannover sagte am Mittwoch, dass die Frage der Beteiligung von Buddhist:innen am Religionsunterricht auch in Niedersachsen eine wichtige ist. Es wäre gut, wenn wir bundesweit und lokal zusammenarbeiten und am selben Strang ziehen würden. Eine Anerkennung als Körperschaft des öffentlichen Rechts (KöR) ist für die Erteilung von Religionsunterricht nicht nötig, würde den Prozess aber vermutlich vereinfachen.

Sowohl die Deutsche Buddhistische Union (DBU) als auch die Congregation der Vereinigten Vietnamesischen Buddhistischen Kirche und Vereinigung vietnamesisch-buddhistischer Studenten und Vietnamesen in der BRD haben 1984 in Niedersachsen und Baden-Württemberg Anträge auf Anerkennung als KöR gestellt leider ist es bei einem ersten Anlauf keiner der beiden Organisationen gelungen, allein anerkannt zu werden.

Inzwischen hat sich die religiöse Landschaft in Deutschland verändert. Die Landschaft ist vielfältiger, bunter geworden. Nicht-christliche Religionen wie die Bahai und die Aymadia haben inzwischen KöR-Status. Der Buddhismus ist eine Weltreligion, nach den Muslimen ist sie die nächstgroße nicht-christliche Religion in Deutschland. Ich denke, es ist wichtig, an dieser Stelle Verantwortung zu übernehmen und uns gemeinsam für die Anerkennung einzusetzen.

15

Ich bin zuversichtlich, dass wir es ähnlich wie in Österreich und Norwegen mit vereinten Kräften schaffen könnten.

Ich frage mich: Wie kommen Ihre Kinder mit dem Buddhismus in Kontakt? Wieviel wissen sie darüber und welche Kompetenzen erwerben sie wie und wo in diesem Bereich?

Religiöse Ausbildung findet in Deutschland anders als z.B. in Frankreich nicht nur zu Hause und in der Gemeinde statt, sondern auch in der Schule. Wissenschaftliche Untersuchungen zeigen, 14-16-jährige Jugendliche erreicht man vorrangig nicht mehr zu Hause, sondern über die Schule und über Peer Groups. In diesem Alter entscheidet sich meist, welchen Weg sie religiös/spirituell einschlagen.

Anders als für Christentum, Judentum und Islam gibt es in Deutschland bisher keine Möglichkeit, eine Ausbildung zu buddhistischen Religionslehrer:innen oder ein buddhistisches „Theologie“-Studium zu machen, um sich beispielsweise in den Gemeinden professionell als Seelsorger:innen einzubringen.

Religionsunterricht und Seelsorge sind zwei große Felder, in denen Buddhisten viel zum Gemeinwohl beitragen können wir benötigen buddhistischen Nachwuchs nicht in Asien ausgebildet, sondern hier in Deutschland. Ich denke, ohne die Vietnamesen als die größte ethnisch-buddhistische Gemeinschaft in Deutschland wird es schwierig werden, das anzugehen. Wir brauchen Ihre Expertise! Das ist meine Bitte: Helfen Sie den Dharma weiterhin fest in Deutschland zu etablieren, auch an den Bildungseinrichtungen und in der Seelsorge in Krankenhäusern, in der Hospiz-Arbeit, in Gefängnissen und beim Militär.

16

Read More »