HÒA THƯỢNG THÍCH PHƯỚC SƠN VỚI VĂN HÓA & GIÁO DỤC

 

HT. Thích Như Điển

Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp ca quá khứ, hiền kiếp ca hiện ti, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu hc của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương giáo lý Phật đà. Nhằm tiếp nối tinh hoa tuệ giác siêu việt ca chư Phật, chư Bồ tát, chư vị Tổ sư đã kinh qua trong suốt nhiều đời, nhiều kiếp mới có được sự kế tục đến ngày hôm nay. Nếu dùng thời gian hiện ti ca kiếp nầy, kể từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáng thế đến nay chtrên 2.500 năm, mà chúng ta đã có vô số văn kiện và dữ liệu để tham cứu hc hi, tu niệm, và cần bàn đến. Gần gũi và trung thực nhất là hai bộ thánh điển Phật giáo ca truyền thống Nam và Bắc truyền. Nếu căn cứ theo đó để nghiên cứu thì chúng ta scó một đáp án tương đối chính xác để ghi nhận những giá trvề Văn hóa và Giáo dc xuyên qua nhiều tâm lực và nguyện lực ca các bậc tiền nhân.

Bộ Đại tng kinh Nam truyền được xuất bn bằng cổ ngữ Pāli 58 tập bởi Hội đồng Kinh tạng Pāli (Pāli Text Society) do Thomas William Rhys Davids thành lập vào năm 1881 tại Anh quốc. Sau đó, bộ Đại tạng này được dch ra nhiều thứ tiếng khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, và Hán, cũng đã được xuất bản cho đến nay. Tng Luật (Vinaya piaka) từ tập 1 9; tng Kinh (Suttanta piaka) từ tập 10 45; tng Luận (Abhidhamma piaka) từ tập 46 58. Tng kinh hay còn gọi là năm bộ Nikāya, gồm: Trường bộ kinh (Dīgha nikāya) 3 tập, Trung bộ kinh (Majjhima nikāya) 3 tập, Tương ưng bộ kinh (Sayutta nikāya) 5 tập, Tăng chi bộ kinh (Aguttara nikāya) 6 tập, và Tiểu bộ kinh (Khuddaka nikāya) 17 tập. Cố Hòa thượng Thích Minh Châu dch thẳng từ tiếng Pāli sang Việt ngữ gồm Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ và Tăng chi bộ. Riêng Tiểu bộ kinh do Giáo sư Nguyên Tâm - Trần Phương Lan dịch thẳng từ tiếng Anh sang Việt ngữ. Bộ Đại tng này vẫn còn thiếu phần Luật và Luận chưa được đưa vào Đại tng kinh Việt Nam, thực tế, các Sư bên Phật giáo Nam truyền đã dịch sang Việt ngữ.

Từ 1965 trở đi, văn học Pāli được đưa vào nội dung ging dy ti Phân khoa Phật hc ca Viện Đại hc Vn Hnh. Nguồn văn học Pāli đóng vai trò tối quan trọng đối với việc nghiên cứu lời dy của đức Phật và đối chiếu dch thuật Hán tng. Năm bộ Kinh tng xuất bn đã phần nào đáp ứng nhu cầu nghiên cứu làm tài liệu chuẩn mực cho hàng Tăng Ni, Phật tử và giới nhân strí thức Phật giáo Việt Nam. Quthực, việc Đại tng kinh Nam truyền được xuất bn bằng tiếng Việt không chỉ làm cơ sở ở phương diện hc thuật, mà quan trọng hơn thế nữa là giúp cho Tăng Ni và Phật tử Việt Nam tiếp xúc được với nền văn học Phật giáo chính thống từ kim khẩu của đức Thế Tôn tuyên thuyết. Đại tng Nam truyền viết bằng ngôn ngữ Pāli được xem là văn bản cổ xưa và nguyên chất của đạo Phật.

Bắc truyền có khá nhiều bộ Đại tng khác nhau ở các quốc gia Phật giáo đại thừa như Tây Tng, Trung Quốc, Cao Ly, Hàn Quốc, và Nhật Bn. Ở Đại lc đã có Đại tng kinh khá sớm và tri qua nhiều lần biên tập, khảo đính. Bộ Đại chánh tân tu Đại tng kinh (Taisho Shinshu Daizokyo) hiện đang lưu hành bằng chữ Hán phồn thể đã được nhiều lần hiệu đính và được xem là bộ Thánh điển Phật giáo đáng tin cậy và đầy đủ về phương diện hc thuật lẫn nội dung. Quí Tôn đức Tăng Ni, những nhà Phật hc ở các nước theo truyền thống Đại thừa và ngay cả các giáo sư ở Âu Mỹ đều dùng bộ Thánh điển này để làm tư liệu nghiêu cứu trong việc ging dạy cũng như sự tu hc.

1

Đại chánh tân tu Đại tng kinh gồm 100 tập, trong đó có 85 tập về nội dung kinh luật luận cùng các sớ gii và 15 tập sau là phần mc lc. Mỗi quyển độ dày mỏng khác nhau và thường mỗi trang chia ra làm ba cột trên, giữa và dưới. Nếu dch một trang chữ Hán ra tiếng Việt strở thành 4 đến 5 trang giấy khổ A4. Tổng quát nội dung như sau:

Quyển 1 & 2 thuộc bộ A-hàm. Quyển 3 & 4 thuộc bộ Bn duyên. Quyển 5 đến quyển 8 thuộc bộ Bát nhã. Quyển 9 & 10 thuộc bộ Pháp hoa và Hoa nghiêm. Quyển 11 & 12 thuộc bộ Bo tích và Niết bàn. Quyển 13 thuộc Đại tập bộ. Quyển 14 đến 17 thuộc Kinh tập bộ. Quyển 18 đến quyển 21 thuộc Mật giáo bộ. Quyển 22 đến quyển 24 thuộc Luật bộ. Quyển 25 & 26 thuộc Thích kinh luận bộ. Một phần quyển 26 đến quyển 29 thuộc Tỳ đàm bộ. Quyển 30 thuộc Trung quán bộ. Một phần quyển 30 đến quyển 31 thuộc Du già bộ. Quyển 32 thuộc Luận tập bộ toàn. Từ quyển 33 đến quyển 39 thuộc Kinh sớ bộ. Quyển 40 thuộc Luật sớ bộ. Một phần ca quyển 40 đến quyển 44 thuộc Luận sớ bộ. Một phần quyển 44 đến quyển 48 thuộc Chư tông bộ. Từ quyển 49 đến hết quyển 52 thuộc Sử truyện bộ. Quyển 53 & 54 thuộc Sự v(vựng) bộ. Một phần ca quyển 54 đến hết quyển 54 thuộc Ngoi bộ giáo toàn. Quyển 55 thuộc Mc lc bộ toàn. Từ quyển 56 đến quyển 61 thuộc Tc kinh sớ bộ. Quyển 62 thuộc Tc luật sớ bộ toàn. Từ quyển 63 đến quyển 70 thuộc Tc luận sớ bộ. Một phần quyển 70 đến quyển 84 thuộc Tc chư tông bộ. Một phần ca quyển 84 thuộc Tất đàm bộ. Quyển cuối cùng thuộc Cổ dật bộ toàn và Nghi tợ bộ toàn. Trong tổng thể kinh, luật, luận từ quyển số 1 đến quyển 54 có tất clà 2.144 bài kinh.

Từ năm 1993, cố Hòa thượng Thích Tnh Hnh phát đại nguyện phiên dch bộ đại tng này sang tiếng Việt. Sau hơn 20 năm làm việc với sự cộng tác ca nhiều Tôn túc, bộ Linh Sơn Pháp Bảo Đại tng kinh bằng tiếng Việt được xuất bn ti Taiwan. Bộ này dch trực tiếp từ tiếng Hán ca Đại chánh tân tu Đại tng kinh từ tập 1 đến 54. Một phần sau ca tập 54 và từ tập 55 đến 85 gồm các nội dung Mật giáo chưa được dch. Bộ Linh Sơn Pháp Bảo lần đầu đã xuất bn được 187 tập, in mỗi tập 500 cuốn gửi tặng thư viện ở các chùa cho việc nghiên cứu hc hi về lời dy của đức Phật.

Từ tập 188 đến tập 202 đang giáo chánh lỗi chính tả cũng như một vài nơi dịch sai hay thiếu sót. Hy vng trong thời gian gần Linh Sơn Pháp Bảo Đại tng kinh sxuất bản đủ 54 tập ca Hán văn sang 202 tập bằng Việt ngữ. Mặc dầu đây chưa phải là bô Đại tng kinh bằng tiếng Việt hoàn ho, nhưng dẫu sao đi nữa đó là công trình văn hóa giáo dục rất đáng được kính trng bởi một sự cố gắng tuyệt vời ca cố Hòa thượng Thích Tnh Hnh, Ngài đã làm việc bằng tâm và nguyện lực từ năm 1993 cho đến ngày viên tch 10/04/2015, ở tuổi 81.

Tôi có cơ duyên được các đệ tử thân tín cố Hòa thượng Tnh Hnh nhờ hiệu đính lại lỗi chính ttừ tập 188 đến 202 chưa xuất bn. Ngồi đọc những lời Phật dy qua những trang kinh, tôi cm thấy rất hay và ý vị. Nơi đây tôi trình bày một phần hội thoi trong kinh văn thứ 2.088, quyển 54 ca Đại chánh tân tu đại tng kinh (Taisho Shinshu Daizokyo), phần Thích ca Phương Chí. Bộ Linh Sơn Pháp Bảo Đại tng kinh, tập 190, bộ Sử truyện 12, trang 1255. Đại ý nói về ngài Khương Tăng Hội và Ngô Tôn Quyền như sau:

“.... vào năm 241 nhằm năm Xích Ô thứ 4, Ngô Tôn Quyền muốn biết sự linh dca Phật pháp; nên ngài Khương Tăng Hội đã cho lập đàn cầu nguyện suốt 21 ngày đêm. Đến ngày thứ 21 xá-lợi ngũ sắc của Đức Phật sáng chói khắp nơi tại đàn cầu nguyện. Sau đó để chứng minh cho Ngô Tôn Quyền thấy sự linh ứng ca xá-lợi, ngài Khương Tăng Hội đã cho bỏ vào cối để giả nhưng xá-lợi vẫn không nát, đập không vỡ. Từ đó, Ngô Tôn Quyền đem lòng tin và dựng tháp để thờ.

Một hôm Ngô Tôn Quyền hi Hám Trch về sự cao cca phép Phật, Hám Trch nói rằng: Nếu đem sự sâu xa ca hai nhà Khổng Tử và Lão Tử để sánh với sự sâu xa ca Phật pháp thì rất xa vậy.

2

Ti sao? Lão Tử thiết lập giáo, phép tắc ti trời chế định, chẳng dám trái với trời; còn chư Phật thiết lập giáo, phép trời phng hành, không dám trái với Phật. Lấy đó để nói thì thật chẳng thể đối sánh rõ ràng vậy.Tôn Quyền vui mừng lấy Hám Trch làm Thái tử Thái Phó...”

Như tất cả chúng ta đều biết ngài Khương Tăng Hội là sơ Tổ thiền tông ca Phật giáo Việt Nam, người Giao Châu. Đầu thế kthứ ba (năm 241) qua Trung Quốc giáo hóa, Ngài đã mang văn hóa Phật giáo đến ging dạy cho người Trung Hoa, một đất nước thấm nhuần nền đạo Khổng và Lão lâu đời. Giáo lý thâm sâu ca Phật đà cộng với sự tu chứng ca Tổ sư Khương Tăng Hội đã khiến cho Hám Trch xin quy y Tam bo và Ngô Tôn Quyền thì dựng tháp để thờ xá-lợi.

Qua câu chuyện trên cho chúng ta thấy đạo Phật xa hơn đạo Khổng và đạo Lão biết dường nào. Nhờ vậy, Phật giáo đã được các triều đại vua chúa luôn hộ trì suốt mấy ngàn năm qua chưa bao giờ chấm dứt. Ngày nay, những lời dy của đức Phật đã được giới thiện trí thức, nhà khoa hc, xã hội học đón nhận một cách nồng nhiệt và trân trng, bởi vì càng nghiên cứu và thực tập thì càng thấy đạo Phật đúng với khoa học, đáp ứng được nguyện vng của con người. Đặc biệt, trong thời đại mà con người đang đối diện với những thách thức về sức khe tinh thần, thì thiền chánh niệm ca Phật giáo như một phương thuốc hữu hiệu nhất để xoa du và chữa lành căn bệnh này.

Giáo lý của đức Phật được lan ta khắp nơi trên địa cầu này chính là nhờ công sức lớn lao ca nhiều bậc Tôn túc từ quá khứ đến hiện ti không ngừng nỗ lực gìn giữ phát huy lời dy của đức Thích Tôn. Do vậy, chúng ta là hàng Thích tử phi có bổn phận nối tiếp ngọn đèn Chánh pháp nầy qua việc tu và việc học để xiển dương nền Đạo hc luôn được tồn ti trên nhân gian nầy.

Những năm tôi sang hoằng pháp ti Hoa k, Đại đức Thích Minh Hi có đến thăm tôi, được biết Đại đức là đệ tử chân truyền ca cố Hòa thượng Thích Phước Sơn (1938-2020). Đại đức đang sưu tập các tư liệu làm tập Kyếu để cúng dường Tôn sư của mình, nên Đại đức đã gửi thư thnh mời tôi viết một bài về Văn hóa và Giáo dc Phật giáo liên hệ đến cuộc đời và đạo nghiệp ca cố Hòa thượng Phước Sơn.

Sau khi xem tiểu sử ca cố Hòa thượng và hồi tưởng trong ký ức, tôi nhận ra rằng cố Hòa thượng Phước Sơn đã dành trn cuộc đời của mình trong hai lĩnh vực Văn hóa và Giáo dc xuyên suốt tám mươi bốn năm hiện hữu ở cõi đời. Ngài đã có nhân duyên xuất gia và thân giáo dưỡng với cố Hòa thượng Trí Th, một vThầy vĩ đại ca Phật giáo Việt Nam; được ngồi dưới mái trường Phật hc viện Hải Đức - Nha Trang, nơi đã đào to nhiều danh Tăng của hậu bán thế kỷ hai mươi ti Trung phần nước Việt. Sau khi vào miền Nam - 1976, Ngài đã gắn bó cuộc đời mình với cố Hòa thượng Minh Châu trong việc ging dy tại Đại hc Vn Hnh và Viện nghiên cứu Phật hc Việt Nam từ buổi sơ khai cho đến ngày viên tch.

Bên cnh việc ging dạy Ngài đã dành nhiều thời gian để dch các tác phẩm văn học Hán tng sang Việt ngữ. Ngài đã để li không biết bao nhiêu là công trình biên kho và dch thuật có giá tr. Những cuốn sách ca Ngài trở thành giáo trình ging dạy cho Tăng Ni ở các Phật hc viện trong nước ngày nay. Nhiều thế hệ Tăng Ni đang hành đạo trong nước và hi ngoại cũng thọ ân giáo dưỡng ca Ngài.

Bn thân tôi kể từ ngày rời quê hương năm 1972 đi du học ti Nhật Bản và năm 1977 định cư tại Đức quốc, tôi ít có cơ hội tiếp xúc hay trò chuyện với quý Tôn túc ở quê nhà. Chúng tôi chgiao tiếp với nhau trên lĩnh vực văn hóa, thi thoảng tôi tìm đọc các tác phẩm của Ngài đâu đó trên mạng lưới internet hay các Phật tử quê nhà gửi sang Viên Giác cho tôi, và tôi được biết trong thư phòng của Ngài cũng có những cuốn sách ca tác giả Thích Như Điển.

3

Cuộc đời và hành trng ca cố Hòa thượng Phước Sơn sống đơn giản, vui thú với đèn sách kinh thi sớm chiều, không chùa chiền hay danh phận gì c. Nếu có, đó là những tác phẩm văn hóa mang đậm nét nhân văn giải thoát của đức Phật và những lời dy ca Ngài ở các Phật hc viện cho Tăng Ni. Chngần ấy thôi chúng ta cũng đã phải cung kính ngưỡng vọng hướng về Ngài. Vì đó là bản hoài ca Đức Thế Tôn dy cho hàng Thích tử “hãy là người thừa tự chánh pháp, chứ đừng thừa tự tài vật.”

Hàng tứ chúng ngày nay thừa hưởng gia tài giáo pháp của đấng Giác ngộ chính là nhờ công lao ca những bậc tiền bối ghi li lời dy ca Đức Phật trên lá bối để lưu truyền cho nhân thế. Các vTổ sư trong quá khứ đã không ngừng nỗ lực gìn giữ gia tài chánh pháp để không bmai một. Công trình văn hóa giáo dục ấy đã được các bậc Tôn túc tiếp nối một cách tuyệt đẹp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ thừa tự Pháp nầy mà nhân loại đã, đương và sẽ nối truyền mãi mãi không còn giới hn bởi thời gian và không gian nữa.

Ngày sau và ngày sau nữa, ở đâu đó trong thư viện ca Phật hc viện hay ở chốn tùng lâm, người đọc stìm thấy những cuốn sách ca tác giả Thích Phước Sơn. Hay thay, ngôn từ chuyên chở tư tưởng trong sách ấy có thể giúp cho ai đó cải tà qui chánh, trở thành người lương thiện giúp ích cho tự thân, gia đình, và xã hội trở nên thánh thiện. Quí lắm thay!

Mong Ngài còn có cơ duyên với trần thế nầy hãy hội nhập Ta bà để hóa độ quần sanh.

Viết xong 25.10. 2020 ti Thư phòng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc

Comments
0 Comments
Facebook Comments by Blogger Widgets

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét