TÓM TẮT VÀ CẢM NHẬN CUỐN SÁCH PHẬT GIÁO MỸ


(tập 2,  Trần Quang Thuận).
                                                        Pháp Cẩn.


Trong khi ngồi ở phòng chờ để mua xe hơi, mình (Pháp Cẩn) thấy một phụ nữ Mỹ - chắc bà cũng đang chờ để mua xe - đang đọc sách (ảnh).
  
                 

            Người Mỹ rất ham đọc sách (đầu năm 2013 này, trong một khóa tu mình nghe hòa thượng Phước Tịnh dạy người Mỹ là dân tộc ham đọc sách nhất thế giới. Cũng trong khóa tu này mình đã mượn cuốn sách này đem về tu viện đọc), thỉnh thoảng mình thấy họ đọc ở khá nhiều nơi, tận dụng thời gian để đọc sách "today, a reader; tomorrow, a leader." Điều này làm mình hơi thẹn. Nhìn lại, thời gian rồi mình ít đọc sách quá. Bảo bận thì ai cũng có thể nói bận, nhưng nếu đã thích làm gì thì vẫn có thể làm thôi. Thế là mình lại sắp xếp thời gian để đọc sách nhiều hơn. Rồi mình nhớ nhóm Mến Sách, cảm ơn Ánh Nguyệt cùng các bạn đã lập nên và duy trì nhóm...Nhớ chị Thanh Huyền và bạn Thanh Nga - hai thành viên nhóm cùng thời gian này năm ngoái đã đến Hải Dương để dự khóa tu Thu Đẹp Đã Về Rồi 2 do mình tổ chức vào đầu tháng 10/2012...­

            ­­Xin được tóm tắt cuốn sách Phật ­­Giáo Mỹ tập 2 của tác giả Trần Quang Thuận, mình mong rằng sẽ có dịp đọc cuốn sách này tập 1.


          Cuốn sách này gần 500 trang, chia làm 5 chương (từ chương VII đến chương XII). Được viết vào cuối thế kỷ qua. Tác giả sinh ngày 2/7/1930, là đệ tử tại gia của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, tốt nghiệp tiến sĩ tại Anh, hiện ở Hoa Kỳ.

          Chương đầu VII bàn về Mật Tông tại Hoa Kỳ. Tác giả nói khá nhiều đến văn hóa Phật giáo Mật Tông Tây Tạng vì ở Hoa Kỳ có ba phái Mật: Mật giáo Tây Tạng- Mông Cổ, cũng có khi gọi Lạt Ma giáo; Chân Ngôn Tông Nhật Bản (Shingon); một phái Mật giáo khác hành trì trong rừng núi Nhật, đó là phái Shugendo. Phái Mật đầu tiên quan trọng hơn hết nên tác giả nói kỹ. Mật giáo Tây Tạng chia làm 2 phái chính:

            1. Hồng phái (phái mũ đỏ): chia làm 3 chi phái:
                 a. Chi phái Nyingmapa là chi phái xưa nhất, rất trung thành với truyền thống cổ, thành lập năm 747, rất thạo về phương thức hành trì thiền quán. Khi hành lễ họ đội mũ đỏ. Tu sĩ được phép lập gia đình vì họ quan niệm môi trường phát triển tâm linh thuận lợi nhất là sống chung với thế gian hơn là cách biệt trần thế.
                 b. Chi phái Kargyutpa được thành lập vào thế kỷ 11, chủ trương nếp sống phạm hạnh, đúng theo giới luật Phật dạy. Phương thức hành trì thiền quán giống phương thức của thiền tông. Tu sĩ thuộc chi phái này thường vào hang động ngồi thiền năm này qua năm khác. Chi phái này cũng có một tên khác là "Phái bán cải cách".
                 c. Chi phái Sakyapa được thành lập vào thế kỷ 11 và cũng được mệnh danh là "Phái bán cải cách". Phương thức thực hành không khác phái Mũ Vàng.
            2. Hoàng phái (phái mũ vàng): Gelugpas, là phái Cải Cách, là môn phái chính của Giáo hội Tây Tạng, Mông Cổ. Môn phái này được thành lập vào thế kỷ 15, chủ trương nếp sống phạm hạnh, nghiên cứu, học hỏi và chỉ truyền thừa Mật đạo sau thời gian dài học hỏi. Sau 1640, vị lãnh đạo của phái Gelugpa, Dalai Lama, vừa là Tăng thống của Giáo hội, vừa là vu xứ Tây Tạng. Vị này được xem như là hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm.
            Ông viết về Đức Đạt Lai Lạt Ma. Có lẽ vị này quá nổi tiếng nên mình không cần giới thiệu nữa.
           Ông cũng dành nhiều tình cảm trân trọng đến Chogyam Trungpa. Vị tu sĩ này tốt nghiệp Đại Học Oxford ngành tôn giáo tỷ giáo, xin quốc tịch Anh. Sau đó Trungpa nghĩ việc hòa mình vào xã hội Tây phương mới hóa độ cho dân chúng nơi này dễ hơn nên đã hoàn tục và cưới một thiếu nữ Anh rồi qua Hoa Kỳ hoằng pháp. Ông mở nhiều khóa tu và trung tâm tu học, lập học viện Naropa- một Phật học viện quốc tế theo mô hình Đại Học Nalanda. Trungpa có mời Jack Kornfield, Joseph Goldstein, Munindra...dạy ở đó. Trungpa quan niệm với trình độ người Âu Mỹ hiện tại, họ nên làm pháp sư hơn là tu sĩ.

          Trong sách này có nói đến một vị tên là Subhakarasimha (Thiện Vô Úy 637-735) nguyên là vua xứ Orissa, xuất gia, từng học tại Đại Học Đường Phật Giáo Nalanda rồi tham cầu tu học nhiều nơi và qua Trung Hoa truyền đạo. Như vậy, qua cuốn sách này cho ta biết rằng không phải chỉ có Trần Nhân Tông của Việt Nam là vị vua duy nhất xuất gia.

          Có chưa đầy một trang bàn về Chân Ngôn Tông và Shugendo ở gần cuối chương.

          Cuối chương có mục Danh Nhân Phật Giáo Mật Tông, gồm rất nhiều vị và có mục Cơ Sở Phật Giáo Mật Tông tại Hoa Kỳ gồm tên trung tâm và địa điểm.
           
            Chương VIII Nhật Liên Tông Tại Hoa Kỳ: bàn về Phật giáo Nhật Bản đã rầm rộ đổ bộ sang Hoa Kỳ như thế nào và phát triển ra sao. Cuối chương có mục Danh Nhân Phật Giáo Nhât Liên cũng như mục Cơ sở Phật giáo Nhật Liên tại Hoa Kỳ.

            Chương IX Phật giáo Nguyên Thủy Tại Hoa Kỳ. Nói về Đức Phật ngày xưa đã nói Pháp bằng nhiều ngôn ngữ mà ngài đi qua.
            Dighanikaya = Trường A Hàm.  
            Majhimanikaya = Trung A Hàm.           
            Samyuttanikaya = Tạp A Hàm.
            Anguttaranikaya = Tăng Nhất A Hàm.

            Có nói đến Đại sư Mahasi Sayadaw đã dạy các đệ tử như Munindra, U Pandita, Jack Kornfield, Joseph Goldstein...và các đệ tử đã truyền bá Phật Giáo Nguyên Thủy đến Hoa Kỳ thịnh hành nhất ra sao. Có nhắc đến trung tâm hướng dẫn thiền tập Insight Meditation Society, trung tâm Spirit Rock Meditation Center. Về các thiền sư Vipassana danh tiếng, có nhắc đến thiền sư Mahasi, U Ba Khin, Achaan Buddhadasa, Achaan Cha, cư sĩ Goenka và trung tâm của ngài ở xứ này. Có nhận định thiền Vipassana tại Hoa Kỳ đã được Mỹ hóa nhiều hơn so với các giáo phái khác. Cuối chương như thường lệ có Danh Nhân Phật Giáo và Cơ Sở Phật Giáo, chương kế cũng có mục cuối này nên mình xin không nhắc lại.

            Chương X Phật giáo tổng hợp Hoa Kỳ. Có nói về một con đường Chiêm Bái từ Spirit Rock đến Green Gulch Farm đi qua 9 trung tâm cách nhau hàng nghìn cây số để người ta vừa chiêm bái vừa thực tập thiền hành. Mình Pháp Cẩn đọc đến đây rất vui và cũng muốn một lần đi bộ hết con đường này. Trong thời gian đọc cuốn này thì trong tu viện có mời thầy Minh Niệm-tác giả cuốn sách Hiểu Về Trái Tim về dạy, thầy ấy đã đi bộ hai ba chục bang ở Mỹ này mất hình như mất 3 năm, khâm phục!
            Có nói về các chương trình hoàng pháp xứ Mỹ này, đặc biệt trong chương này còn nói về việc Phật tử Hoa Kỳ thiết lập Câu Lạc Bộ Thiền Tập Pentagon năm 1976, mục đích hướng dẫn nhân viên Bộ Quốc Phòng về thông điệp hòa bình của đức Phật!

            Có chương trình cho ai muốn nghe pháp 5 phút bằng điện thoại di động!

            PHẦN 3: TƯƠNG LAI PHẬT GIÁO MỸ.

            Chương XI:
             1. Phật giáo và trào lưu Văn Hóa, Xã Hội Hoa Kỳ hiện đại.
            Khi các cao tăng Ấn Độ qua Trung Hoa hoằng pháp, các vị đã học hỏi văn hóa Trung Hoa và dùng những thuật ngữ từ Đạo Lão, Khổng để chia sẻ về đạo Phật. Đạo Phật qua Trung Hoa hòa mình vào văn hóa bản xứ nên y phục của tu sĩ Phật giáo xứ này khá giống với dân Trung Hoa, cả kiến trúc ngôi chùa cũng giống với kiến trúc bản xứ...Và tác giả gợi ý khi Phật giáo Hoa Kỳ-hiện tại mới đang trong trứng nước-muốn xâm nhập sâu vào văn hóa Mỹ cần phải hòa nhập với văn hóa Hoa Kỳ như các tổ sư Ấn khi vào trung Hoa.

            2. Phật giáo và các vấn đề xã hội Hoa Kỳ.
            Để có thể mở được những cánh cửa cho dân Mỹ đi vào Phật giáo mạnh mẽ, tác giả chỉ ra những cánh cửa như Phật giáo và vấn đề chiến tranh và hòa bình, sinh môi, chủng tộc-màu da-quyền làm người, chính trị, phá thai, nam nữ bình quyền, luyến ái-đồng tính luyến ái, bệnh Aids, cần sa ma túy và nghiện rượu, nghèo khổ, bệnh tật, gia đình-con cái, luật pháp.

            3. Phật giáo, tâm lý học và tâm lý trị liệu.
            Thiền sư Philip Kapleau không muốn giải thích yếu nghĩa thiền bằng khái niệm tâm lý học.
            Chogyam Trungpa đem, đạo học Tây Tạng giảng dạy cho sinh viên, diễn dịch tinh thần Phật học Tây Tạng qua lăng kính tâm lý học và khoa học tâm lý trị liệu.

            Nền văn học Abhidhamma (Luận tạng) của Phật giáo rất thâm sâu, đây là tài liệu cổ xưa nhất về ngành tâm lý học cách nay hai ngàn năm vì vậy có một ảnh hưởng rất lớn đối với nền tâm lý học Hoa Kỳ nói riêng, khoa tâm lý học hiện đại nói chung.

            Chương XII Tương Lai Phật Giáo Mỹ.
            Phật giáo đến Hoa Kỳ từ khi nào?
            Nếu căn cứ vào học giả M. De Guignes người Pháp thì Phật giáo đã đến lục địa Hoa Kỳ năm 458 do phái đoàn của đại sư Hwui Shan hướng dẫn.

            Nếu căn cứ vào sự thành lập hội Thông Thiên Học tại New York năm 1875 thì Phật giáo đến Hoa Kỳ từ thời gian này.

            Nếu căn cứ vào sự xuất hiện của đại sư Soyen Shaku, người Nhật trước diễn đàn Đại Hội Tôn Giáo Toàn Cầu năm 1893 thì Phật giáo đến xứ này thời gian đó. Những đạo sư đầu tiên chuyển bánh xe pháp tại đây như Suzuki, Maezumi, Datagiri, Jiyukenett, Trungpa, Kalu, Kyentse...đã viên tịch. Những đại sư khác như Robert Aiken, Philip Kapleau đã chỉ định người kế thừa...càng lúc Phật giáo càng mang văn hóa Hoa Kỳ và lan ra khắp nước. Thiền không chỉ trong tu viện mà còn có thể đem về nhà, áp dụng vào đời sống trong quảng đại quần chúng. Trong chiều hướng này ta thấy sự xuất hiện của thiền sư Thích Nhất Hạnh, Bernard Tetsugen Glassman; trong chiều hướng này ta thấy xuất hiện những tổ chức với các danh hiệu như The Buddhist Peace Fellowship, The National Buddhist Prison Sangha.

            Định nghĩa Phật tử rất khó. Tác giả đưa ra vài mô hình của một số học giả để thống kê số lượng Phật tử hay những người đến với đạo Phật. Số lương Phật tử Hoa Kỳ có thể 500 000 người theo một mô hình và có thể gấp 10 lần theo mô hình khác. Số lượng đông đảo nhất tập trung ở miền Tây, đặc biệt tại California và Washington State, tiếp đó là miền Đông tại các vùng đô thị như New York, New Jersey, Pennsylvania, kế đến là Chicago, không nhiều lắm ở miền Trung và miền Nam Hoa Kỳ.
            Bảng thống kê của Nhật Liên Tông cho thấy số lượng thành viên gồm 41% gốc Châu Âu, 30% gốc Á Châu, 13% gốc Latin, 12% da đen và 4% thuộc chủng tộc khác. Nói tổng quát 58% da trắng, 42% da vàng, da đen , da đỏ. 30% cựu Thiên Chúa, 30% Tin Lành, 25% thuộc các giáo phái Phật giáo khác, 6% Do Thái, số còn lại không có tín ngưỡng trước đây.
          Tại trung tâm thiền Los Angeles, 28% Do Thái, 12% Thiên Chúa, 52% Tin Lành, 8% không tín ngưỡng.

            Tại trung tâm Nyingma Tây Tạng 45% Cơ Đốc, 34% theo hạnh yoga, 26% hành trì thiền thuộc các truyền thống khác.

            Tại sao người Mỹ theo Phật giáo? những lý do chính:
1. Liên hệ gia đình, bạn bè.

2. Đặc tính khoa học và duy lý của Phật giáo. Một số tôn giáo xem Thiên Chúa là vị sáng tạo vũ trụ...khó cho người Hoa Kỳ có thể chấp nhận. Người Hoa Kỳ đến với Phật giáo qua giáo phái Theravada và thiền hơn là giáo phái Tịnh Độ.

3. Phật giáo là phương thuốc thần diệu đối với một xã hội băng hoại và bệnh hoạn.
4. Truyền thống Phật giáo phong phú biểu tượng, lễ nghi, thần bí.
5. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.
6. Muốn vượt lên trên những người khác.
7. Cần một khuôn mặt có thẩm quyền nhưng từ ái và khuôn mặt này là một thiền sư, một Rinpoche...
8. Phản ứng chống lại tổ chức tôn giáo truyền thống, tôn gióa của cha mẹ.
9.  Nhu cầu làm vơi bớt khổ đau, đặc biệt là khổ đau tinh thần.
10. Đi tìm một cuộc sống phong phú hơn, hữu dụng hơn.
11. ĐI TÌM CHÂN LÝ. Họ là những người Mỹ đã thực hành nhiều phương thức tôn giáo truyền thống nhưng không đạt được kết quả mong muốn. Tu tập thiền quán làm sáng tỏ ánh sáng nhiệm mầu chân lý.
 Trong 25 năm qua, hoằng truyền Phật giáo xứ này có 4 lãnh vực cần lưu ý:
1. San sẻ kinh nghiệm tu học.
2.  Dân chủ hóa tổ chức.
3.  Vai trò phụ nữ.
4. Dung hợp.

            DỰ PHÓNG VÀ KẾT LUẬN.
            Theo nhận định một số học giả Phật giáo, tương lai Phật giáo Mỹ dựa vào những yêú  tố căn bản sau đây để có thể trở thành một tôn giáo của quảng đại quần chúng hay chỉ là một tín ngưỡng nhỏ bé, để rồi dần dần bị tiêu diệt dưới sức ép của truyền thống Cơ Đốc-Do Thái giáo tại Hoa Kỳ.
1. Học đạo và tu đạo. Số lượng tín đồ của một tôn giáo không quan trọng bằng phẩm chất.
2. Phối hợp hoạt động hoằng pháp.
3. Thấm nhuần đạo. Tình trạng bắt cá hai tay, đến trung tâm này một thời gian lại đến trung tâm khác, không thật sự đi sâu vào một pháp môn.
4. Sử dụng ngôn ngữ thời đại. Cần khế lý, khế cơ.­­                   ­­
5. Âu Mỹ hóa phương thức hành đạo.
6. Thành lập giáo hội tăng già Mỹ. (Giáo hội tăng già Anh mới gần đây đã được thành lập.)
7. Hoạt động văn hóa.
            Số lượng Phật tử Hoa Kỳ trong tương lai có thể lên hay xuống, nhưng ảnh hưởng của Phật giáo vào lối suy tư Hoa Kỳ, vào nếp sống Mỹ sẽ tiếp tục lớn mạnh. Trong chiều hướng này, Phật giáo Mỹ vào thiên niên kỷ tới có một triển vọng khá xán lạn.­­­­
           

            Nhận định của người đọc về cuốn sách.
            Đây là một cuốn sách hay, công phu, đáng đọc do một cây bút Việt Nam viết. Tác giả có hiểu biết rất sâu rộng về Phật giáo nên ông có khả năng tiên đoán tương lai khi biết nhấn mạnh những nhân vật Phật giáo xuất sĩ cũng như cư sĩ Dalai Lama, Goenka (vị thiền sư cư sĩ khả kính này vừa qua đời khi mình viết cảm nhận tác phẩm này), Jack Kornfield, Joseph Goldstein,...và những trung tâm tu tập như học viện Naropa, trung tâm Insight Meditation Society, trung tâm Spirit Rock Meditation Center...Năm 2013 này theo CNN bình chọn, Spirit Rock Meditation Center ở California đứng vị trí số 1 trong 10 trung tâm tổ chức khóa tu thiền tốt nhất thế giới với Jack Kornfield là người lập nên cùng với vài vị khác (1).
            Đức Dalai Lama năm 2013 này đứng vị trí số 1 trong 100 nhân vật có ảnh hưởng tâm linh nhất thế giới (2). (Trong danh sách này, thiền sư Thích Nhất Hạnh đứng vị trí thứ 2, Deepak Chopra đứng vị trí thứ 4.)
            Nhưng trong sách này tác giả không nhấn mạnh về thiền sư Thích Nhất Hạnh, không nói gì đến Deepak Chopra, mình nghĩ thế là hơi tiếc.  Về tương lai Phật giáo ở Hoa Kỳ (nói riêng và Tây Phương nói chung), giáo sư Cao Huy Thuần có nhận định "Vậy thì, có một nhánh Phật giáo nào ở Âu Mỹ có khả năng lan tỏa ra đại chúng chăng ? Có. Đó là Phật giáo Tây Tạng mà ngài Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh sống động. Phật giáo bám rễ được ở Tây phương là nhờ ngài và cả một loạt những nhà sư Tây Tạng xuất chúng qua giáo hóa tại đấy. Chỉ mỗi một việc xuất hiện của các vị đó thôi đã làm dấy động được lòng tin nơi quần chúng. Phật giáo Tây Tạng đáp ứng được những khắc khoải về tâm linh của quần chúng hơn là thiền tông đến từ các thiền sư Nhật Bản. Nhưng dù là thiền tông hay Phật giáo Tây Tạng, trí tuệ và lòng tin phải cùng bay với nhau như hai cánh của con đại bàng." (3)
            Trong khi đó, thiền sư Nhất Hạnh trong bài giảng Tương Lai Đạo Bụt ở Âu, Úc và Mỹ Châu có nói nhiều đến dòng tu thuộc phái Làng Mai của ngài sáng lập (4).
Có thể đọc văn bản (4) hay có thể xem trực tiếp bài giảng (5).
           Trong cuốn sách Những Cánh Mai Mùa Đông (có một chương trích ra thành cuốn sách khác tên là Tương Lai Thiền Học Việt Nam), cuốn sách là tâm tình của thiền sư Thích Nhất Hạnh gửi thiền sư Thích Thanh Từ những năm bảy mấy, ngài có viết chắc thầy (Thanh Từ) cũng đồng ý với tôi rằng chúng ta đi về đâu thì thiền học Việt Nam đi về đó...và điều này bây giờ đã trở thành sự thật. Việt Nam ta có 2 thiền sư lớn hiện tại là thiền sư Thích Nhất Hạnh và thiền sư thích Thanh Từ, cho ta thấy tài tiên đoán như thần của thiền sư Nhất Hạnh.
            Về Đức Đạt Lai Lạt Ma và thiền sư Nhất Hạnh làm ta nhớ Bill Gates và Steve Jobs! Cả hai thiên tài công nghệ này có khá nhiều điểm giống nhau như cùng bỏ đại học, khởi nghiệp với hai bàn tay trắng từ trẻ...khoảng năm 1982, khi Steve Jobs đã là triệu phú thì Bill Gates đang chật vật...nhưng Gates nhanh chóng vươn lên trở thành tỉ phú giàu nhất nước Mỹ và thế giới với đế chế Microsoft hùng mạnh đã lan rộng năm châu...còn Jobs thì bị đá văng khỏi công ty, sau đó trở về vực Apple lên lại...Nhưng Jobs là người của tương lai, tuy ông đã qua đời nhưng Apple của ông còn lên mạnh...Cả hai vị thiền sư này đều giống nhau là không được về quê mình một thời gian dài nhiều thập kỷ. Khi Đức Dalai Lama phải trốn qua Ấn Độ và còn lận đận du hành nhiều nơi thì thiền sư Nhất Hạnh đã rất nổi tiếng khi được một anh hùng nước Mỹ là Mục Sư Martin Luther King đề cử giải Nobel Hòa Bình 1967. Nhưng sau 1975 chiến tranh Việt Nam kết thúc còn Tây Tạng vẫn âm ỷ...Đức Dalai Lama đã được giải Nobel Hòa Bình 1989 nên rất tiếng tăm đến giờ....Nhưng thầy Nhất Hạnh là người của tương lai, ngài đã biết tổng hợp Phật giáo Bắc và Nam truyền, vận dụng những yếu tố văn hóa Tây phương như âm nhạc, cách tổ chức dân chủ, bình đẳng nam nữ, vấn đề sinh môi...vào truyền thống tu tập Làng Mai. So sánh như vậy có phần khập khiểng vì Đức Dalai Lama và truyền thống tu Tây Tạng dường như mạnh nhất và có thể giữ được sự phổ biến ít nhất nhiều thập kỷ nữa xứ này.
             Đức Dalai Lama và Phật giáo Tây Tạng, thiền sư Thích Nhất Hạnh và dòng tu của ngài, cùng các trung tâm thiền nguyên thủy có ảnh hưởng lớn đến tương lai đạo Phật Hoa Kỳ.
            Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm Phật Giáo Mỹ (tập 2) đến các bạn.
                                                                                                           Mùa thu 2013.

Comments
3 Comments
Facebook Comments by Blogger Widgets

3 nhận xét: