Các Trường Tuyển Người Học Như Thế Nào?

Làm sao để biết người này là thông minh để tuyển vào trường?
Có một số đại lượng có thể đo trực tiếp được. Thí dụ cân nặng. Chỉ cần có cái cân và để một người lên đó rồi nhìn kim chỉ khối lượng. Khá dễ. Nhưng mình cần biết là khi nói một người nặng 47kg và cũng người đó ngày mai cân 48kg. Cả hai số liệu có thể đúng. Nó phụ thuộc vào một số yếu tố như từ cái cân (có thể cái cân không đúng chính xác), có thể do cách đọc cái cân từ người đo (nhìn nghiêng có thể ra kết quả khác một chút), và từ đối tượng được cân (nếu mặc áo ấm dày, mang giày, đeo đồng hồ, vừa ăn xong…thì khác khối lượng với việc mặc y phục ngắn, vừa vào phòng vệ sinh ra, chưa ăn…). Có nghĩa là dù đo một đại lượng tương đối dễ như khối lượng vẫn có sai số.
Có một số đại lượng không đo trực tiếp được. Thí dụ cơn giận hay trí thông minh. Thế làm sao để đo cơn giận được bằng phương pháp khoa học Tây Phương?
Phải đo gián tiếp. Tuy không biết được chắc chắn một người đang giân hay không, mình có thể đo qua một số tiêu chí gián tiếp. Thường thì một người tức giân thì tim đập mạnh lên. Đây là một tiêu chí. Thế là ta có tiêu chí tim đập mạnh hơn bình thường là một tiêu chí của cơn giận. Nhưng tiêu chí này có thể đúng với xác suất tương đối thấp, thí dụ 20%. Thật vậy, một người mới tập thể dục về tim vẫn đập mạnh hơn dù chả giận, cùng nhiều nguyên nhân khác cơn giận làm tim đập mạnh. Thành ra, bài học đầu tiên là dùng một tiêu chí để kết luận khi muốn đo đạc một đại lượng “trừu tượng” (không đo trực tiếp được) là hơi thiếu cơ sở khoa học. Phải cần nhiều tiêu chí hơn. Ta có khái niệm mối tương quan (correlation). Khi cái này xảy ra thì cái kia có thể xảy ra. Tương quan không phải nhân quả (causation). Ta thấy tương quan ở hai đại lượng cơn giận và tim đập mạnh.
Tiêu chí thứ 2 là huyết áp tăng lên. Cũng như tiêu chí đầu, tiêu chí này có thể đúng với khả năng không cao lắm, thí dụ 20%.
Khi chập hai tiêu chí trên thì có khả năng người ấy đang giận lên cao hơn, ví dụ có thể 30%. Có nghĩa là khi một người có tim đập nhanh và huyết áp cao hơn thì phần lớn không phải do đang giận (70%). Hai tiêu chí là không đủ.
Tiêu chí thứ 3 là ngôn ngữ cộc cằn, thô lỗ và có thể chửi thề văng tục (thông qua quan sát, observation), thí dụ 15%. Tất nhiên người đó có thể không giận nhưng vẫn hay nói thế như một thói quen. Nhưng thường thì nói vu vơ như thế sẽ không liên quan đến việc tim đập mạnh và huyết áp tăng. Tức là nếu ta gom 3 tiêu chí trên thì đã có một xác suất cao hơn về việc kết luận người đó đang giận, có thể chưa được 20%+20%+15%=55%, nhưng cũng cỡ, thí dụ, 40%.
Tiêu chí thứ 4 là người đó tuyên bố (thông qua phỏng vấn) họ đang giận, thí dụ 30%. Chỉ tiêu chí này thôi không đủ kết luận người đó đang giận. Lý do là người ấy có thể là sếp, không giận nhưng giả vờ giận để la lối làm nhân viên tập trung làm việc hơn. Một lần nữa, một tiêu chí đơn lẻ không đủ sức đưa đến kết luận. Khoa học kiểu Mỹ này trở thành văn hoá rồi: một tiêu chí không đủ.
Tiêu chí nữa đến từ thần kinh não bộ (neuroscience). Khi cơn giận phát khởi, một vùng não kích hoạt mạnh hơn và có thể một vùng não khác bị ức chế. Máy móc có thể ghi lại điều này. Dữ liệu từ thần kinh não bộ hiện nay có giá trị khoa học cao, có độ tin cậy lớn. Tuy vậy, chỉ mỗi tiêu chí từ thần kinh não bộ vẫn không cho ta kết luận được người đó đang giận. Nguyên nhân có thể có những vấn đề khác làm vùng não đó bị hoạt động mạnh và vùng não khác hoạt động yếu đi chứ không chắc chỉ do cơn giận. Hơn nữa, để đo một đại lượng như cân nặng còn có sai số, như đã viết từ đầu, nên đo lường từ máy móc phức tạp trong thần kinh não bộ có độ chính xác không phải tuyệt đối. Tất nhiên đây là ví dụ, thực tế có thể có vài tiêu chí khác nữa.
Rồi gom các tiêu chí lại để kết luận cá nhân đó có giận không. Người ta thiết lập một lằn ranh mà dưới mức đó thì là chưa kết luận được, nếu cao hơn thì kết luận được. Cụ thể, trong tâm lý học, thông thường là 2 mức, 95% và 99%. Nếu gom các tiêu chí mà thấy đúng vượt mức đó thì kết luận là người đó có giận, không đủ thì thôi, không kết luận được.
Tương tự như thế, trường học có thể dùng kiểu như thế này, tức gom các tiêu chí lại để đánh giá cá nhân có thông minh hay đủ khả năng học ở trường nào đó. Từ đó ta tạm chia 2 cách chọn người vào học.
Cách 1 như một số trường ở Mỹ đang tuyển sinh. Trí thông minh không thể đo lường trực tiếp được nên phải đo gián tiếp. Một Đh, thí dụ Rollins College, có thể lấy những tiêu chí:
Điểm trung bình
Thư giới thiệu
Bài luận (3 bài)
Phỏng vấn.
5. Một kì thi chuẩn hoá (SAT).
6. Cống hiến cộng đồng.
Ban tuyển sinh sẽ gộp các tiêu chí lại để chấm điểm từng ứng viên. Rồi lấy từ trên xuống.
Cách 2 như trường Bách Khoa ở Sài Gòn là thì 3 môn toán (3 tiếng, mình nhớ ko rõ), Lý, và Hoá mỗi môn 2.5 tiếng hay đại loại như vậy. Bách Khoa sẽ chấm điểm từng môn rồi cộng lại. Xếp điểm ấy từ trên xuống thấp và lấy người vào cho đủ số lượng tuyển sinh. Ví dụ lấy 300 cho khoa Xây Dựng thì cứ lấy xong rồi cho ra điểm đậu.
Như đã nói, cách tuyển sinh kiểu 2 này chỉ căn cứ vào 1 kì thi. Khả năng rủi ro có thể có. Nếu người đi thi hôm đó bị đau bụng hay bịnh hay tai nạn giao thông…thì cơ hội đậu sẽ mất đi năm đó. Hơn nữa, do chỉ thi Toán, Lý, Hoá nên không dễ nhận ra khả năng trong một số lĩnh vực khác, thí dụ Công Nghệ Thông Tin. Có thể người học Hoá không giỏi nhưng họ có thể học CNTT tốt thì sao? Hơn nữa, chuyện gian lận hay mua điểm có thể dễ xảy ra hơn. Thí dụ người này học kém nhưng thi khoa Lịch Sử thì chỉ cần mua ban kiểm thi 2 người trong phòng là có thể trót lọt. Bởi vì thi kiểu này không cần quá khứ học tập (không cần điểm phổ thông nên dù thấp cũng không sao). Cách thi thứ 1 khó mua chuộc hơn vì kì thi chuẩn hoá SAT khó mua hơn. Dẫu có mua thì cũng còn điểm trung bình, thư giới thiệu….nên khả năng mua chuộc vài nhóm người là khó. Cái hay của cách tuyển sinh 1 là có không gian cho ứng viên thể hiện khả năng, năng lực qua bài viết, cũng như sự đánh giá từ giáo viên trong thư giới thiệu. Một điều hay nữa là thể hiện khả năng làm việc nhóm với người giỏi. Để được thầy cô viết thư giới thiệu thì cá nhân đó phải học khá và có quan hệ tốt với giáo viên. Đây là tiêu chí quan trọng cho cuộc đời tương lai. Hơn nữa, tiêu chí đóng góp cho xã hội cũng cần. Nếu bạn trẻ nào hay đi từ thiện, tham gia câu lạc bộ quét rác thành phố hay đại loại vậy thì được đánh giá cao hơn. Nó thể hiện khả năng cá nhân đó sẽ đóng góp cho xã hội tương lai.
Ưu điểm cách tuyển sinh thứ 2 là nhanh gọn, ít tốn kém. Nhiều môn học có thể cho thi trác nghiệm nên chấm rất nhanh, đỡ tốn kém. Chả cần đọc thư giới thiệu và thư tự viết nên ít tốn thời gian. Ở một đất nước cần xoá nghèo thì tuyển thứ 2 rất hợp lý vì ít tốn kém. Tuy vậy, cách tuyển này có thể để sót nhân tài với xác suất cao hơn. Việt Nam có nhiều trường tuyển cách thứ 2 và Mỹ thường tuyển cách 1.
Tuy vậy, bức tranh không hoàn toàn vì Việt Nam bây giờ rất đa dạng trong tuyển sinh vì có hợp tác nhiều trường nước ngoài, chương trình liên kết…Trong khi Mỹ cũng có trường ma, hay các trường Cao Đẳng Cộng Đồng không cần tuyển sinh phức tạp…
Từ chuyện đo cơn giận cho đến đo trí thông minh, khoa học Mỹ đã thành văn hoá rằng phải dùng nhiều tiêu chí mới tạm kết luận được. Không nên dùng một tiêu chí. Thành ra, nếu mình thấy số liệu nào bảo một trường Đại học Tây hay Tàu nào bảo là tốt nhất thế giới căn cứ theo 1 hay 2 tiêu chí thì mình chưa vội tin. Vì như đã nói, cần phải có nhiều tiêu chí gộp lại mới tạm kết luận được. Chất lượng Giáo Dục Đại Học là vấn đề phức tạp, không phải trong bài này. Nhưng mình cần biết một điều là cần gom nhiều tiêu chí để đi đến một kết luận trước những đại lượng không đo trực tiếp được.
Read More »

Ở Mỹ, Phải Có Bằng Tiến Sĩ Thì Bản Dịch Kinh Phật Mới Được Xem Là Nguồn Hàn Lâm

Ở Hoa Kỳ thì Kinh Phật được dịch ra từ nhiều nguồn, do nhiều dịch giả. Tuy vậy thường thì dịch giả nào có bằng tiến sĩ về Phật Học hay gần với chuyên ngành (tiến sĩ về Tôn Giáo Học, Á Châu Học...) dịch Kinh nào thì Kinh đó mới được thừa nhận là nguồn hàn lâm để giảng dạy trong Đại học hay sau Đh. Thực tế, giáo sư giảng dạy thường chọn dịch giả có bằng tiến sĩ ở Đại học Top thế giới/Mỹ.
Thí dụ Kinh Pháp Hoa có vài bản dịch ra tiếng Anh. Bản đầu tiên dịch năm 1884, các bản kết tiếp năm 1974, 1975, 1976, 1991. Nhưng trong Đh Mỹ thì dùng bản dịch của Burton Watson, năm 1993. Dịch Giả này lấy tiến sĩ ở Đại học Columbia lừng danh. 



Nói điều này để biết tuy Phật Giáo đến Mỹ sau gần 2 thiên niên kỉ so với Việt Nam nhưng hiện tại hầu hết dịch giả Việt Nam lại không có bằng tiến sĩ ở trường top thế giới.
Nói thế không phải để chê mà để cho biết mình đang ở đâu so với Phật Học thế giới.

Read More »

Một số cuốn sách nên đọc đi đọc lại vài lần

Một số cuốn sách chúng ta nên đọc đi đọc lại vài lần. Đọc một lần có thể hiểu không hết những cô đọng, tri thức, và ẩn ý trong sách. Về số lượng và chất lượng tri thức, đọc lần đầu có số lượng, đọc lần sau đi vào chiều sâu tri thức.
Mình nhớ mình từng đọc nhiều lần cuốn Đường Xưa Mây Trắng (Cuộc Đời Đức Phật). Lần đầu là năm 2006-2007. Lần 2 là 2008-2009. Lần 3 là khi mình có dùng cuốn này như một giáo trình dạy một lớp năm 2012. Lần nữa là những đêm trăng sáng yên tĩnh ở tu viện Thanh An, Florida, khi bóng trăng qua hàng cây là lúc mình leo lên mái chùa nằm nhìn trăng và nghe cuốn này (đã có sách nói miễn phí từ lâu).
Cuốn Trái Tim Của Bụt mình cũng đọc nhiều lần, tiếng Việt và Anh.
Trên là 2 ví dụ trong số nhiều cuốn sách Phật Giáo.
Cuốn Thế Giới Phẳng mình đọc lần đầu năm 2008 ở chùa Từ Hiếu, Huế. Lần 2 mình đọc là trong kì nghỉ xuân 2014 ở North Carolina, đọc bằng tiếng Anh.
Cuốn Nghĩ Lớn Để Thành Công của ông Trump (viết khi ông chưa đậu tổng thống) mình cũng đọc 3 lần.
Cuốn Tôn Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại mình cũng đọc 3 lần (đang đọc lại tới chương cuối khi đánh những dòng chữ này).
Xin đưa ra vài ví dụ.
Read More »

Tiệm Tu, Đốn Ngộ rồi Trở Thành Đốn Ngộ, TIệm Tu


Xã Hội Học Tôn Giáo có bàn đến hiện tượng Bây Giờ và Ở Đây trong những xã hội phương Tây trong thế kỉ 21 như Hoa Kỳ. Rất là thiền. Tín đồ đã quá mệt mỏi với việc phải chờ đợi mỏi mòn ở thời gian vô định trong tương lai hay sau cái chết mới tìm được cứu rỗi. Tín đồ không muốn nghe câu chuyện mà trong đó ai muốn đạt được chân lý hay cứu rỗi phải trải qua rất nhiều nỗ lực, chông gai trên con đường dài mới đến đích. Bây Giờ và Ở Đây là giải pháp phần nào.
Một số giáo phái Đạo Tin Lành như Pentecostalism tin tưởng ở chính mình nhiều hơn, có khi do sự phù hộ từ một đấng mầu nhiệm nào đó. Họ tập họp lại với nhau khá thường xuyên, ăn uống, ca hát và nhảy nhót cùng rượu bia. Rồi trong cái lâng lâng của lễ hội ấy, họ bảo họ cảm thấy như được "sự rử a tội trong Chúa Thánh Thần," nhận được ân sủng một cách bất chợt, khiến nhiều người hạnh phúc khóc lên. Born again, họ vui mừng như được tái sinh một lần nữa. Kiểu như lên đồng trong tín ngưỡng dân gian người Việt.
Trong Phật Giáo cũng có một hiện tượng na ná, nhưng đã diễn ra từ 2 ngàn năm. Phật Giáo nguyên thuỷ có quan niệm Đức Phật Thích Ca đã thành Phật là do tu tập rất, rất lâu, rất nhiều nhiều kiếp mới thành Phật được. Điều này như tôn vinh Đức Phật lên một địa vị cao tột không dễ có người sánh bằng. Công thức chung là gradual cultivation, sudden enlightenment (tiệm tu, đốn ngộ). Nhưng theo thời gian thì một số tín đồ có thể cảm thấy mệt mỏi không nỗ lực tu tập vì tu quá lâu, mấy chục năm mà chả thành Phật được, thì tu tinh tấn làm gì cho mệt. Phật Giáo Phát Triển bèn triển khai khái niệm Phật Tánh (Buddha Nature). Phật Tánh là ai cũng có! Ai cũng có khả năng thành Phật! Chúng ta có Phật trong mình rồi, chỉ cần bào mòn tham sân si đi thì Phật trong ta sẽ hiển lộ mà thôi. Chúng ta có thể thành Phật ngay (đồng thời đá xéo dòng tu truyền thống rằng tu theo ta thì giác ngộ ngay trong đời này, tu theo truyền thống thì cũng hay nhưng phải vô lượng kiếp mới thành Phật được). Thế là có công thức ngược lại: sudden enlightment, gradual cultivation (đốn ngộ, tiệm tu hay kiến tánh, khởi tu). Tổ Chinul của Triều Tiên  là ví dụ cho nguyên tắc này.
Đây là hiện tượng fast religion (tôn giáo ăn liền). Con người hiện đại bận rộn nên cần mì ăn liền, cà phê uống liền chứ không pha trong cái fin chờ 15 phút sau mới nhấm nháp. Tôn giáo phương Tây cũng chuyển đổi theo.

Read More »

Just-World Có Nghĩa Là Nhân Nào Quả Đó hay Ác Giả Ác Báo

Khái niệm just-world có thể dịch là ác giả ác báo hay gieo gió gặt bão?
Đại khái, khi thấy một người bị khó khăn, đang gặp hoạn nạn, người khác bảo đó là do nghiệp của kẻ đó đã gây nay phải gặt quả. Họ có thể blame the victims (chê trách nạn nhân): cho đáng, hay đó là quả đắng phải nhận do sống ác ngày trước.
Just-world là một khái niệm trong tâm lý học xã hội. Trong xã hội hay có những người khi thấy người khác khó khăn thì chê trách nạn nhân và phớt tỉnh ăng lê.
Người hay chỉ trích nạn nhân có thể là người kém từ bi?
Theo mình hiểu thì có một luật gọi là luật nhân quả. Nhân nào thì quả nấy. Nhìn cái quả xấu bây giờ thì biết cái nhân từ trước.
Đây là nhận định đơn giản.
Đi sâu hơn thì vấn đề nhân quả nó phức tạp hơn. Giáo sư Phật Học Mario D'Amato, người dạy mình mấy năm, thì bảo rằng mạng lưới nhân quả đại khái nó không đúng hoàn toàn trên đời này đâu. Ở khía cạnh này thì nó như gien di truyền vậy đó. Đứa con nó có di truyền từ cha và mẹ nhưng nó cũng có nhiều điểm không giống cả cha và mẹ từ thân hay từ tâm nó. Không thể nói di truyền ảnh hưởng 100% lên đứa con được (nếu ảnh hưởng 100% thì cần gì giáo dục hay dinh dưỡng nữa!). Di truyền chỉ ảnh hưởng đôi chục phần trăm lên cá nhân mà thôi.
Gs Phật Học này ví dụ vui là nếu tự nhiên có con chim bay qua ỉa trên đầu bạn thì nó không phải là nghiệp của bạn đâu, tình cờ thôi; ví dụ vui này đại ý là nghiệp, cũng như di truyền, không ảnh hưởng 100% đến cuộc sống mình như người dân quê họ nghĩ đâu. Thiền sư Nhất Hạnh cũng có dạy là nếu mạng lưới nhân quả mà đúng tuyệt đối thì con người không giải thoát được; mạng lưới nhân quả có một xác suất không chính xác nào đó.
Nói một cách dễ hiểu là có khi mình phải đứng trước ngã ba đường. Nghiệp có thể đưa mình đến đây. Nhưng nếu mình chọn ngả nào thì cũng do mình nữa chứ không chỉ là do nghiệp mà thôi. Một ví dụ là ngày đó, năm 2012, mình được Làng Mai (sư cô Chân Không) gọi qua Pháp. Nhưng mình lại có cơ hội qua Mỹ. Đứng trước sự phân vân lớn này mình cũng không quyết định được rõ. Có nghĩa là cái nghiệp của mình (nghiệp gồm cả nghiệp tốt lẫn nghiệp xấu chứ nghiệp không chỉ là nghiệp xấu) nó trùng với một trong hai lựa chọn. Mà nói thiệt là mình mê cả hai nước. Thật vậy, là một nhạc sĩ (à mà ngày trước mình cũng có sáng tác mấy chục bài thơ), mình thích sống nước lãng mạn nhất thế giới với ngôn ngữ thanh tao Pháp Quốc. Mặt khác, Hoa Kỳ là một nước vô cùng tuyệt vời. Mình phân vân. Mình còn nhớ là mình đã nằm võng dưới hiên với những gốc dừa thanh bình miền biển Phú Yên nhà chị bà con và đọc cuốn sách Nghĩ Lớn Để Thành Công của ông Donald Trump. Năm đó là năm 2012, lúc đó ông Trump này chưa có dấu hiệu gì sẽ đậu tổng thống. Cuốn sách đó đã thay đổi đời mình. Đại khái ông ấy bảo hãy tham vọng mạnh mẽ lên. Đam mê, đam mê, và đam mê. Thế rồi mình quyết định chọn nước Mỹ. Để tri ân ông ấy, trong va li đem qua nước Mỹ mình có đem theo vài cuốn sách tiếng Việt trong đó có cuốn này.
Trở lại khái niệm just-world. Khi thấy người ngoài đường gặp nạn mình không giúp được thì thôi; không nên chê bai người ta đại khái cũng sống tệ lắm giờ mới vậy hay đại loại như vậy. Thực vậy, dù họ có thể gây nghiệp xấu để đến giờ nhận quả đi nữa thì có thể nghiệp xấu của họ đã gây từ 5 kiếp trước, ví dụ vậy. Đến kiếp này họ đâu nhớ gì về 5 kiếp trước đâu nên mình cần từ bi mà giúp đỡ họ thoát khổ và nhận ra và hành theo thuyết nhân quả. Trách móc và chỉ trách móc họ mà không giúp họ không phải là con đường từ bi.
Huống hồ là người thân. Khi thấy người thân gặp khó khăn hoạn nạn thì người kiểu just-world có khuynh hướng chê bai, bực bội, bất bình, phẫn uất...với nạn nhân mà không giúp đỡ gì nạn nhân bao nhiêu...
Read More »

Niềm Vui Đầu Xuân 2019


Ngày 1-1-2019 là tết Tây cũng sinh nhật mình. Có một nhóm các Phật Tử, cỡ 15 người quanh khu vực thành phố Berkeley, Cali đến thăm mình từ trưa đến chiều. Mình có chia sẻ Phật Pháp và sách tấn nhóm tu tập. Các Phật Tử cũng chia sẻ vui vẻ và an lạc. 

            Có một niềm vui nữa là mình nhận một món quà ý nghĩa từ xa. Bạn Chi đã dịch xong cuốn sách Happiness ra tiếng Việt. Bạn ấy cố dịch cho xong như một món quà sinh nhật cho mình. Mình rất ấm áp và trân trọng món quà đó.
            Bích Chi đã học xong Cao Học Ngân Hàng và đi làm từ nhiều năm nay ở Việt Nam. 6 năm trước, 2012, mình có dạy một lớp khoảng 15 bạn Cao Học về Anh-Việt Phật Giáo với lý thuyết và thực hành. Về tiếng Anh, lớp có sử dụng vài cuốn sách tiếng Anh của ngài thiền sư Nhất Hạnh và mình mời các bạn dịch Việt. Sau đó thì mình qua Mỹ đầu 2013 nên dạy qua mạng nửa năm thì không dạy nữa. Lúc đó mình đang dạy dở dang cuốn Happiness.



             Nay bạn ấy đã dịch cho xong ra tiếng Việt. Mình rất vui và trân trọng sự nỗ lực của Bích Chi. Bạn cũng bảo rất hạnh phúc và ý nghĩa khi dịch cuốn này vì cuối năm bận bụi mà bạn vẫn nỗ lực hoàn thành.
            Chúc Bích Chi, cũng như các thành viên lớp ấy, một năm mới thật nhiều tinh tấn tu Phật, học Phật, và Hoằng Pháp.
Read More »