Từ thế kỉ 18 này, con người (Tây Phương) biết dùng lí trí để tìm hiểu thế giới khách quan một cách hệ thống, bài bản, và lan rộng. Hơn thế nữa, tôn giáo cũng được con người sử dụng lý tính để tìm hiểu chứ không tin bừa những gì thuộc về huyền bí, mơ hồ, mê tín,...
Với lý tính, con người đã dần thấy nhiều sai lầm khổng lồ của các tôn giáo.
Tất nhiên cũng với lý tính, con người hiểu thêm về những điều hay lẽ phải trong tôn giáo. Điều này giúp các tín đồ củng cố đức tin bằng lý trí; tôn giáo không hoàn toàn mâu thuẫn với lý tính đâu.
Các dân tộc Á Đông hiện nay đã biết dùng lý tính trong xã hội. Nhưng có vẻ người Á Đông vẫn chưa biết dùng lí trí để tìm hiểu các tôn giáo Á Đông.
Xét về mặt tôn giáo, nhìn chung có lẽ phải đến giữa thế kỉ 21 này người Á Đông mới biết dùng Lý Tính để tìm hiểu các tôn giáo Á Đông một cách bài bản, hệ thống, logic, và phổ biến.
Lạc hậu 3 thế kỉ.
Tất nhiên là các tôn giáo Á Đông có nhiều điều hay lẽ phải và "minh triết cao siêu."
Mời các bạn đọc một bài về lịch sử Lý Tính:
https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/truong-hoc-cua-ly-tinh/
Tất nhiên là các tôn giáo Á Đông có nhiều điều hay lẽ phải và "minh triết cao siêu."
Mời các bạn đọc một bài về lịch sử Lý Tính:
https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/truong-hoc-cua-ly-tinh/
Những trích đoạn trong bài trên:
“Trong thế kỷ 18 và từ đó trở đi, Newton được xem là người đầu tiên và vĩ đại nhất của thời hiện đại của các nhà khoa học, một người duy lý (rationalist), người dạy chúng ta tư duy bằng con đường của lý tính lạnh lùng và không tô màu." Newton sinh ra trong một thế giới còn đen tối, ma lực, từng đứng bên bờ của điên loạn, nhưng đã khám phá nhiều hơn tất cả những gì thế giới hai ngàn năm trước đó khám phá. Ông là kiến trúc sư trưởng của thế giới hiện đại. Ông thiết lập được những nguyên lý được gọi là các định luật mang tên ông.
""Voltaire của thế kỷ khai sáng cho rằng lý tính là nguyên lý của sự tiến bộ văn minh loài người. Ông lạc quan tin vào một “lý tính phổ quát” đã được ươm trồng trong con người, và nó vẫn tồn tại âm ỉ cho dù có những sự cuồng nộ gây chiến tranh chống lại nó, cho dù có các tên bạo chúa tìm cách dìm nó vào máu, cho dù có những kẻ mạo danh lừa gạt muốn thủ tiêu nó bằng mê tín (Bury). Nói chung, sự tiến bộ của nhân loại là kết quả của cuộc chiến đấu gian khổ giữa cái cũ và cái mới. Con người tuy có hạt giống lý tính trong người như Voltaire nói, nhưng cũng có những hạt giống của vô minh, của thành kiến đã hằn lại trong tiềm thức. “Khó khăn không phải ở ý tưởng mới”, như Keynes nói, “mà ở chỗ thoát ra khỏi những ý tưởng cũ, những thứ đã phân nhánh, đối với những ai đã lớn lên như phần lớn chúng ta, vào mỗi ngõ ngách của trí tuệ chúng ta.” Cornelius Lanczos một nhà vật lý đồng nghiệp của Einstein từng nói: “Không có khám phá khoa học nào từng được dựa trên sự áp dụng của common sense (‘lý tính bình thường’) cả”, và theo Einstein, “lý tính bình thường là lớp đất các thành kiến được kết lại trong tinh thần” từ nhỏ đến khi lớn lên trong một xã hội, hay trong một thời kỳ nhất định. Các lý thuyết khoa học, theo Einstein, là một phương tiện để nới rộng trực giác của chúng ta vào những thế giới vượt khỏi lý tính bình thường. Khoa học của Galilei, Kepler, và Newton trở thành lý tính bình thường mới.
***
Nếu ai đó nói rằng phương Tây nhờ có tự do nên đã có nhiều khám phá, trong khi Trung Hoa vĩ đại không có tự do nên đã bị tụt hậu từ 1500 trở đi, và tiếp tục tụt hậu khủng khiếp sau đó, thì nhận xét ấy chỉ có tính hiện tượng luận, chứ chưa đi vào gốc rễ của sự thật. Giới tinh hoa, nhất là giới khoa học, trí thức phương Tây, không hề dễ dàng được ban phát tự do đầy đủ cho hoạt động tri thức của họ. Ngược lại, họ phải tự tranh đấu để giành lấy quyền tự do tư duy và phát biểu những gì họ khám phá được trước công luận. Lịch sử của sự vươn lên của khoa học phương Tây là lịch sử của cuộc đấu tranh dữ dội giữa các nhà khoa học, những người đại diện của lý tính, và quyền lực của nhà thờ, mà đổ máu và chết chóc là tất yếu đã xảy ra. Cho nên người ta đã gọi các nhà khoa học là những “kẻ nổi loạn”, nổi loạn trong tư duy, trong việc thay đổi dòng nhận thức của nhân loại. Nổi loạn đối với tri thức cũ đã trở thành thành kiến và rào cản. Đồng thời họ cũng là những người kiến tạo thế giới quan mới. Albert Einstein là một nhân vật điển hình, vừa kiến tạo, vừa nổi loạn. Không có những người tiên phong như thế, nhân loại có lẽ vẫn còn sống với thế giới quan của thời Trung cổ.
Trung Hoa – phương Tây là một chương dài, để hiểu hết tại sao Trung Hoa tụt hậu, trong khi phương Tây lại bứt phá tiến lên. Đó là Câu hỏi Needham nổi tiếng. Một trong những yếu tố khách quan quan trọng thúc đẩy và tạo điều kiện để tự do phát triển là châu Âu có nhiều quốc gia riêng biệt − một sự phân mảnh chính trị − khiến họ luôn luôn cạnh tranh nhau để sinh tồn, trong khi Trung Hoa chỉ có một chính quyền trung ương duy nhất thống trị toàn cõi vương quốc. Sự cạnh tranh là nhân tố kích thích quan trọng đem lại tiến bộ về mọi mặt: thương mại, sản xuất, khoa học, công nghệ, tư tưởng vân vân. Quốc gia này có thể dung nạp những kẻ bị đàn áp ở quốc gia khác, nghĩa là cho họ “tị nạn chính trị”, vì họ hoặc khác tôn giáo, khác ý kiến, hoặc bị ghép vào tội dị giáo. Các sách bị cấm của Galilei tại Ý có thể được xuất bản tại Hà Lan. Những người Hugenot bị đàn áp ở Pháp có thể chạy sang các quốc gia khác sống. Các nhà khoa học của các quốc gia riêng lẻ vừa cạnh tranh nhau vừa hợp tác nhau theo một “tinh thần khoa học quốc tế” cao cả. Khoa học có ngôn ngữ chung: Tiếng La tinh. David Hume trong quyển The Rise of Arts and Sciences đối chiếu sự đa dạng (diversity) và đa nguyên (pluralism) của châu Âu với sự đồng nhất (homogeneity) và nhà nước thống nhất của Trung Quốc. Ông cảm nhận sự phân mảnh chính trị của châu Âu là nguyên do chính đàng sau sự phát triển thăng hoa của tri thức hữu dụng. Và cũng chính nó cho phép các nhà tư tưởng không theo lề thói hưởng được nhiều quyền tự do hơn. Châu Âu nhờ sự phân mảnh đó mà trở nên “khoan dung” hơn, trong khi Trung Hoa thống nhất không có độ khoan dung cần thiết về chính trị và tư tưởng cho sự phát triển. Lấy trường hợp của Zhu Shunshui, hay Châu Thuấn Thủy, một trong ít học giả thế kỷ 17 có kiến thức rộng về tri thức hữu dụng cũng như về kiến trúc và nghệ thuật. Vì ủng hộ nhà Minh cho nên đến khi nhà Minh bị lật đổ, ông đầu tiên chạy qua Việt Nam để xin tị nạn, ra vô đến năm lần, từng tới Hội An, nhưng không được vua hiểu tài để trọng dụng, lại còn bị hành hạ, xúc phạm, và bị dọa giết, nên cuối cùng ông bỏ sang Nhật, phục vụ cho Daimyô Mitsukuni của Mito-han, là một trong những han quan trọng của Nhật Bản. Ở đó, ông được rất trọng đãi nên đã đem hết sở học ra cống hiến cho đến khi mất.[6]
Cái học của Trung Hoa chủ yếu chỉ phụng sự cho thi cử làm quan, vừa vinh quang, vừa có quyền thế, và giàu có với bổng lộc. Với cái giá phải trả là không có khám phá khoa học, quốc gia không thể vươn lên như phương Tây, tư tưởng vẫn luôn luôn bị kềm hãm. Nhà Thanh, năm 1800 chẳng hạn, có sự dư thừa về nhân lực khủng khiếp: Có 1.4 triệu thí sinh cạnh tranh cho 20.000 chức vụ trong triều đình. Những người còn lại làm gì? Ngay cả những học giả giỏi nhất cũng có nguy cơ bị thất nghiệp. Không giống như ở châu Âu, nơi có trường đào tạo nghề cho thương mại và công nghiệp. Có ai quan niệm được một nho sĩ ở Trung Hoa đi làm nghề thủ công, thực hiện thí nghiệm, để tìm ra phương pháp luận, tìm ra cái mới có tính quy luật được che dấu trong thế giới vật chất, hay tìm ra những kiến thức hữu ích cho công nghiệp? Trong một đoạn nổi tiếng của trưởng nhóm Dòng Tên ở Trung Hoa, Matteo Ricci viết rằng ở xứ sở này: “Chỉ một người đã đạt được danh hiệu Tiến sĩ hay Cử nhân mới được nhận vào bộ máy hành chánh của vương quốc… không ai muốn lao động để đạt được sự thành thạo trong toán học hay y khoa, họ chỉ có niềm hy vọng trở thành nổi bật trong lãnh vực triết học (tức các môn học cổ điển). Kết quả là hầu như không có ai”. Cái học tự nhiên, toán học, thiên văn, kỹ thuật từng thời cũng có, chỉ biến mất vào thời Thanh, nhưng tất cả đều hình thức, và thí sinh phải tỏ ra trả bài trong khuôn khổ của Tứ thư. Tất cả những đổi mới sáng tạo đều có thể bị xem là đe dọa hệ thống, là không chính thống, và thí sinh sẽ bị đánh rớt. (Benjamin A. Elman) Mối sợ hãi truyền kiếp đối với tất cả những gì mới có thể gây xáo trộn trong xã hội. Đó là những tiên đề của sự bế tắc khoa học và công nghệ. Dĩ nhiên ở châu Âu cũng có thái độ như thế. Nhưng có điều khác biệt: Ở đó con người nhất định không cam chịu, dù bị trả giá. Và sự phân mảnh có thể tạo ra chỗ thoát cho họ."
Tư tưởng Khổng giáo được đưa lên hàng tín điều bất khả xâm phạm, gần như một tôn giáo. Trung Hoa không có Tòa án dị giáo (Inquisition) như phương Tây, nhưng khoa học vẫn không phát triển được. Vì sao? Vì cái học chủ yếu để làm quan, không phải để khám phá, chế độ không cảm thấy mình bị đe dọa, nên không cần Tòa án dị giáo. Không học giả nào “dại dột” thách thức Khổng tử, Mạnh tử và Tuân Tử như giới học giả phương Tây từng làm đối với Aristote, Ptolemy và Galen. Truyền thống “tôn sư trọng đạo” ở Trung Quốc giết chết sự đổi mới sáng tạo về tư tưởng từ trong trứng. Không ai dám nghĩ khác, “dám biết” như người phương Tây. Và các tác phẩm cổ điển “đã chứa tất cả túi khôn khả dĩ”, và “các mục đích theo đuổi khoa học không nhằm tiến gần đến sự thật khách quan mà chỉ là một sự khám phá những gì các bậc hiền triết cổ xưa đã biết.” (Lloyd & Sivin). Trung Hoa có các khoa học (viết nhỏ) nhưng không có Khoa học (viết hoa). (Sivin) Tuy Trung Hoa không bị thống trị bởi một thần quyền hà khắc như nhà thờ La Mã ở châu Âu, nhưng Trung Hoa cũng không bao giờ có cách mạng khoa học hay khai sáng, là những giai đoạn phát triển rực rỡ mà người hiện đại đã chiến thắng người cổ đại, bằng sức mạnh của khoa học và lý tính, đưa con người ra khỏi sự vô minh.
Vì lối học từ chương để làm quan trong một đế chế thống nhất nên Trung Hoa không có “thị trường cạnh tranh của ý tưởng” như ở châu Âu, không có truyền thống tranh luận tự do, chỉ có trên nói dưới nghe, trên phán dưới chép. Các nhà khoa học như thời nhà Minh và nhà Thanh tập trung toàn tâm toàn trí vào “nghiên cứu văn bản và cổ học”, cho nên thay vì phát triển khoa học, họ bị ám ảnh với lịch sử của họ. Họ tự nhận có một lịch sử cổ đại vĩ đại không bao giờ vượt qua được, mà chỉ có nghiên cứu, diễn giải và học thuộc nó thôi, không cần phát minh thêm cái mới. Niềm hãnh diện của họ là vô bờ bến. Cũng chính vì niềm hãnh diện này mà họ đã không tiếp thu được khoa học từ các nhà truyền giáo. Khác hẳn với tình hình ở Nhật Bản. Nếu những người châu Âu cũng nói: Các thành tựu của thời cổ đại Hy Lạp là vĩ đại và không thể vượt qua, chỉ cần học và nghiên cứu lại, như các nhà nhân văn thời Phục Hưng đã làm, thì chúng ta có thể hình dung số phận châu Âu, và của cả thế giới hôm nay sẽ ra sao. Max Weber vì thế mới nói rằng, may thay cho châu Âu, giai cấp các nhà nhân văn không có ảnh hưởng thống trị lâu dài, nếu không thì châu Âu cũng có nguy cơ tụt hậu y như Trung Hoa.
Ở Trung Hoa, do làm ăn nhỏ, trong phạm vi gia đình, hay dòng họ, là đơn vị kinh tế của xã hội nông nghiệp và thủ công, nên chỉ có “đạo lý giới hạn” (limited morality), chỉ biết lợi ích của nhóm nhỏ, chỉ có lòng tin vào người ruột thịt họ hàng. Các cá nhân chỉ biết lo cho họ, và những người gần gũi họ nhất, rất ít cho xã hội rộng mà họ sống trong đó, cho nên họ dễ dàng có tinh thần “bộ lạc” và dễ trở thành cơ hội chủ nghĩa khi họ giao dịch với những người họ không biết. Trong khi đó, châu Âu có “đạo lý rộng” (general morality), các “enterprise” (công ty) hay “corporation” xuất hiện từ khoảng thế kỷ 16 trở đi, có qui mô vượt khỏi phạm vi gia đình, được nới rộng đến các thành viên ngoài xã hội. Lòng tin con người được mở rộng. Lòng trung thành nhóm, sự tin tưởng lẫn nhau, trách nhiệm lẫn nhau, sự nương tựa lẫn nhau giữa những người ngoài dòng họ, đó là những tình cảm mới được phát triển và vun xới. (Từ đó họ phát minh loại kế toán kép để bảo đảm sự minh bạch giữa các thành viên với nhau.) Đổi mới sáng tạo mà những lợi ích của nó tác động lên một cộng đồng rộng rãi, và có thể cả nhân loại, do đó dễ diễn ra ở những xã hội với đạo lý rộng. Ở đó, người ta có nhiều động cơ mong muốn làm một cái gì có lợi cho số đông, hay để nhận được sự công nhận của họ. Đạo đức rộng sẽ giúp kết nối con người nhiều hơn, dễ hơn, trên một mặt bằng nào đó, chẳng hạn như trường hợp của Cộng hòa trí thức (Republic of Letters). (Joe Mokyr) Với tầm nhìn rộng, khi giàu có, họ sẽ giúp lại xã hội, hoặc thế giới, như các nhà hoạt động nhân ái Mỹ. Họ xem quốc gia, và thế giới là nhà, chứ không chỉ biết gia đình nhỏ hẹp. (Xem Thư gửi Quý nhà giàu Việt Nam).
Nhưng nói cho cùng, Trung Hoa thiếu một Hy Lạp cổ đại như một tấm gương để đặt ra những tiên đề của sự phát triển mang tính con người, hiện thân của những giá trị cao cả của khoa học, nghệ thuật, văn học, cũng như của đạo đức dám bảo vệ chân lý, và tự do, nhìn thế giới với tầm nhìn của những con người khai phá, không phải xem thế giới được cho để hưởng thụ, mà xem thế giới được đặt ra như một câu hỏi để con người giải đáp, không vì một lợi ích vật chất nào cả."
Các dân tộc khác làm ra thần thánh, vua chúa và ma quỷ. Chỉ có dân tộc Hy Lạp làm ra con người, con người luôn luôn khao khát đi tìm chân lý, cái thật, cái đúng, cái bản chất của vũ trụ.
Lý tính có thể học được, cũng như khoa học. Descartes cho rằng khả năng phán đoán được cái gì là tốt, phân biệt được cái gì là đúng, khác với cái sai, điều làm nên lý tính, là được phú bằng nhau trong tất cả con người. Lý tính, cái làm cho con người khác biệt với động vật, “có cả trong mỗi chúng ta”. Các nhà triết học tin rằng con người có thể học lý tính thông qua các phương pháp khoa học, toán học. Francis Bacon tin rằng phương pháp toán học sẽ có khuynh hướng làm giảm đi các khác biệt giữa con người với nhau, và làm cho độ thông minh họ bằng nhau.
Nói dễ, ở mức độ nào đó, nhưng con người xuất thân từ sự vô minh trong hang động, như trong ẩn dụ của Plato, mà con đường trở về ánh sáng chân lý không phải phút chốc đạt được hết, mà chỉ từng bước, và rất khó khăn. Lịch sử phát triển khoa học đã cung cấp những bằng chứng sống động nhất. Ta đã thấy qua những thí dụ của Galilei, Kepler, Newton, Maxwell, Planck, Einstein và Heisenberg.
Steven Weinberg trong diễn văn nhận giải
Nobel 1976 mô tả đầy kịch tính hoàn cảnh hoạt động khám phá hết sức khó
khăn của các nhà vật lý thế kỷ 20, cũng như những trải nghiệm khám phá
của chính ông, khi mượn ẩn dụ ngôn hang động Plato trong Republic, qua đó chúng ta có thể cảm nhận phần nào lộ trình không đơn giản của lý tính:
“Chúng ta ở trong một hang động như thế,
bị cầm tù bởi những giới hạn về các loại thí nghiệm chúng ta có thể
thực hiện. Đặc biệt chúng ta chỉ có thể nghiên cứu vật chất ở vùng nhiệt
độ tương đối thấp nơi đó đối xứng dễ bị phá vỡ tự phát khiến cho tự
nhiên không hiện ra ở dạng rất đơn giản hay được thống nhất. Chúng ta
cũng không có năng lực ra khỏi hang động này, nhưng bằng cách quan sát
lâu và chăm chú các bóng của bức tường hang, chúng ta ít ra có thể hình
dung được hình dạng của các loại đối xứng, những đối xứng tuy bị phá vỡ,
nhưng lại là những nguyên lý chính xác quản lý tất cả các hiện tượng,
là những biểu hiện của vẻ đẹp của thế giới bên ngoài.”Sự phát triển của khoa học ở phương Tây không biết một sự hạn chế tiên đề nào từ một quyền lực hay định kiến bên trên. “Ai dám đặt ra giới hạn cho óc thông minh và năng khiếu khám phá của con người? Ai muốn khẳng định rằng tất cả những gì trong thế giới có thể trải nghiệm và nhận thức được đều đã được khám phá và nhận thức rồi?” như Galilei từng thách thức. Khoa học đi theo con đường riêng của nó, và các phương pháp tư duy, và thực nghiệm ngày càng ngày càng tinh vi hơn để khám phá. Giới khoa học không bao giờ chịu sự phục tùng về lý trí trước quyền lực. Họ phải làm chức năng thiên phú của họ: là khám phá sự thật. “Bao lâu con người tin rằng những gì người Hy Lạp và La Mã đạt được vào thời huy hoàng nhất của nền văn minh, phát triển đến một mặt bằng trí thức mà đời sau sẽ không bao giờ đạt tới, bao lâu uy quyền của các nhà tư tưởng của họ được đặt ra như cái gì không thể nghi vấn được, thì một lý thuyết của sự thoái hóa sẽ phát triển không cưỡng được, điều loại bỏ một lý thuyết của sự tiến bộ”, như J. B. Bury nói. Đó là trường hợp của phương Đông với Khổng giáo kềm hãm sự phát triển. Ở phương Tây, giáo dục từng bước phát triển theo lộ trình tiến bộ của khoa học, bớt giáo điều, kinh điển, và hướng về khoa học, có lý tính nhiều hơn. Hệ thống tư duy ở phương Tây là từng bước buộc phải mở, trong khi ở phương Đông vẫn bị cố đóng lại.
Ở Mỹ tình hình thoáng hơn. Các người cha lập quốc ngay từ đầu là những nhà khai sáng và yêu thích khoa học, lý tính. Họ sống trong thời đại của Khai sáng. Không có một loại “chuyên chính trí thức” hay giáo điều nào thống trị ở đó. Tự do ngay từ đầu nhận được sự đồng thuận lớn để phát triển cho mọi thành phần. Xã hội có một động lực rõ rệt ngay từ đầu: là khai phá, là tiến bộ, để phục vụ hạnh phúc cho nhân dân, cho nên sẽ không tương thích với những gì cản trở, trong chính trị, hành chánh cũng như giáo dục.
Một trong những quyển sách, để minh họa, rất cũ nhưng rất có ảnh hưởng lớn lên văn hóa lý tính của phương Tây là Các cơ sở hình học của Euclid[8]. Einstein cũng có một trải nghiệm mạnh mẽ với nó. Năm 12 tuổi ông đọc một trong những quyển sách này về hình học Euclid trong mặt phẳng. Trong tự truyện, được viết vào lúc 70 tuổi, ông viết lại rằng đó là “sự nhiệm mầu” thứ hai mà ông trải nghiệm, sau cái nhiệm mầu thứ nhất là cái la bàn mà ông nhận được lúc 4 tuổi. Ông viết: “Đó là những mệnh đề (định lý), chẳng hạn như mệnh đề ba đường cao của một tam giác giao nhau tại một điểm – mặt dù điều đó không hiển nhiên – nhưng có thể được chứng minh với sự chắc chắn đến độ mọi sự nghi ngờ có thể bị loại trừ. Sự sáng tỏ, và chắc chắn này gây một ấn tượng không thể tả lên tôi.” Trước đó, ông đã có dịp tự chứng minh định lý Pythagore.[9] Ông gọi các quyển sách Euclid là “thần thánh”, “thiêng liêng”. Chúng có một sức tỏa trí tuệ ghê gớm và mầu nhiệm. “Đối với ai lần đầu tiên trải nghiệm, thì đó là đủ mầu nhiệm, rằng con người nói chung có khả năng đạt tới một mức độ lớn như thế về sự chắc chắn và tinh khiết, như những người Hy Lạp lần đầu tiên chứng minh cho chúng ta trong hình học.”
Phương Đông không có một quyển sách như thế. Yukawa Hideki, nhà vật lý Nhật Bản đầu tiên mang về giải Nobel cho quê hương ông năm 1949, có lần đến dự hội nghị tại Hy Lạp. Ông càng trăn trở về câu hỏi tại sao phương Tây có khoa học, còn phương Đông thì không. Câu hỏi đó dẫn về văn minh khai sáng của Hy Lạp nói trên.
Trường học không có nhiệm vụ nào quan trọng cho bằng nhiệm vụ dạy cách tư duy chặt chẽ, phán đoán thận trọng và kết luận lôgic. Cho nên trường học phải loại bỏ tất cả những gì không thích hợp với các thao tác này, thí dụ như tôn giáo[11]. Nó phải dự trù rằng sau này sự mơ hồ của con người, thói quen và ham muốn sẽ làm giảm đi khả năng tư duy chặt chẽ. Tuy nhiên bao lâu ảnh hưởng của nó còn cho phép, trường học cần phải dạy cho được điều cơ bản và trội bật ở con người sau đây: ‹Lý tính và Khoa học, như khả năng tri thức cao nhất của con người›[12] như ít nhất Goethe nhận định.
Nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên von Baer nhận thấy tính ưu việt của người châu Âu so với người châu Á về năng lực được giáo dục ở nhà trường, rằng họ có thể đưa ra những lý lẽ để biện minh cho điều họ tin, trong khi những người kia hoàn toàn không có khả năng. Châu Âu đã trải qua trường học của tư duy lôgic và có tính phê phán, trong khi châu Á vẫn chưa phân biệt được giữa Sự thật và Thi ca[13], và chưa ý thức được niềm tin của mình có phải là kết quả từ sự quan sát riêng và cách tư duy đúng đắn, hay là từ những sự tưởng tượng mơ hồ cảm tính (phantasy). Lý tính trong trường học đã làm cho châu Âu trở thành châu Âu: trong thời Trung cổ nó đã có nguy cơ biến thành một mảnh đất và một phần phụ thuộc của châu Á – nghĩa là mất mát tinh thần khoa học mà nó đã học được từ những người Hy Lạp.
Fukuzawa Yukichi trong tự truyện của
mình cũng có nhận định về giáo dục phương Đông, rằng lối học cũ làm
thiếu đi lý tính và tư duy sáng sủa của phương Tây:
(1835-1901)Thừa nhận rằng số phận của cả một quốc gia lệ thuộc vào giáo dục nhân dân của nước đó (chúng ta thấy) có những dị biệt căn bản trong giáo dục của các dân tộc phương Tây và dân tộc phương Đông.Trong giáo dục phương Đông, thường bão hòa với giáo lý của Khổng giáo, tôi thường thấy có hai điểm thiếu sót; đó là sự thiếu sót sự học về số (numbers, toán học) và lý tính (reason) trong văn hóa vật chất, và sự thiếu sót ý tưởng độc lập trong văn hóa tinh thần. […]Nhật Bản không thể nào khẳng định mình trong hàng ngũ các cường quốc thế giới mà không có sự nhìn nhận và thực hành hai nguyên lý trên. Cho nên tôi mới kết luận rằng triết lý Trung Hoa như cội rễ giáo dục là trách nhiệm cho những thiếu sót hiển nhiên nói trên.[…]Lý do đích thực của sự chống đối rất mạnh mẽ của tôi đối với văn hóa Trung Hoa là lòng tin rằng bao lâu học thuyết nhìn lui cũ kỹ (old regrogressive) của trường phái Trung Hoa vẫn còn tồn tại trong đầu của thanh niên chúng ta, thì đất nước chúng ta không bao giờ có thể bước vào hàng ngũ các quốc gia văn minh của thế giới!!
Fukuzawa Yukichi trong Tự truyện
Xã hội mất đi nguyên lý lý tính ngự trị trong điều hành sẽ là tai họa. Xã hội sẽ diễn ra phi-lý tính, phản lôgic, phản khoa học và hỗn độn. Các “quái vật” đủ loại sẽ xuất hiện, như bức tranh của Goya minh họa. Cho nên chúng ta rất cần vun đắp con đường chúng ta đi bằng lý tính, khoa học, và ý thức lịch sử, để khiêm tốn học hỏi, cần phân biệt đâu là “thi ca”, điều mà lịch sử Việt Nam có nhiều, đâu là sự thật, điều mà Việt Nam còn khá ít, để phục vụ cho sự phát triển lành mạnh của đất nước. Không có sự phát triển nào lành mạnh mà không bao hàm lý tính, khoa học, như linh hồn, ngược lại với sự tùy tiện, hư cấu và duy ý chí.
Anthropology of religion: started in the Enlightenment time.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa