Đức Phật Có Ý Kiếm Một Vị Thầy Để Xin Nương Tựa

Có lần, dù đã thành Phật, mà Đức Phật có tư tưởng muốn kiếm một vị xin nhận làm Thầy để nương tựa (nhưng kiếm không ra). Bài Kinh này có nhiều nghĩa, chỉ xin gợi ý chút thôi.
Vào thời kì đầu của Phật Giáo, Phật là một con người chứ không phải là thần linh với nhiều quyền năng thần thông biến hoá. Mãi đến khi Phật Giáo Đại Thừa xuất hiện thì mới tô vẽ thần hoá Phật lên (điều này bắt đầu khoảng thế kỉ 1 sau công nguyên về sau).
Khi thành Phật thì có nhiều điều khác biệt với người thường. Một trong những khác biệt ấy là bất bạo động. Nhưng bất bạo động trong thế giới còn bạo lực này thì cũng giống làm con nai trong khu rừng. Khu rừng có nai, hưu, chim chóc và hoa trái, nhưng rừng cũng có hổ beo sẵn sàng ăn thịt bất cứ lúc nào. Bồ Tát sợ nhân--chúng sanh sợ quả: Người giác ngộ thấy cái quả rõ ở mỗi hành động mình tạo nên họ không muốn tạo ác nghiệp, do đó họ bất bạo lực. Người thường khác đi.
Vì lẽ ấy, Phật phải "tuyển sinh" đông đảo và nhanh, thủ tục đơn giản. Khả năng để những kẻ khác tiêu diệt một nhóm người nhỏ là cao, nhưng không dễ diệt sạch một cộng đồng đông đảo. Con nai đứng lẻ loi dễ bị ăn thịt nhưng có cả đàn nai thì dễ sống sót hơn. Vì thế nên thời Phật thì trở thành thầy tu dễ thôi, chỉ đọc ba câu quy y Phật, Pháp, Tăng là được rồi. Số lượng tăng vọt nhưng chất lượng cũng là vấn đề đáng trăn trở. Vì Phật giỏi nên Ngài có thể khai thị cho một số lượng người giác ngộ. Tuy vậy, số chưa giác ngộ nhiều. Thậm chí còn có nhiều thầy không hiểu giáo lý hay hiểu lầm, thậm chí hiểu ngược ý Phật dạy. Chuyện này cũng thường thôi.
Sau này, Phật Giáo tổ chức lại thì nhìn chung phải mất sớm lắm là 4 năm mới được làm thầy (1 năm tập sự, 3 năm Sadi).
Cũng xin nói thêm, có vẻ như người xuất gia thế kỉ 21 này được bảo vệ tốt hơn thời xưa. Thời nay có pháp luật chặt chẽ nên chuyện các tôn giáo diệt nhau là không dễ (tuy vẫn và sẽ tiếp tục có chuyện đó). Ngày xưa luật pháp lỏng lẻo nên chơi luật rừng là nhiều (và sự thật là Phật Giáo ở Ấn Độ đã bị diệt sạch sành sanh).
Thành Phật rồi mà bảo vệ chính mình còn khó; đừng nghĩ Phật nhiều phép thuật uy lực như le lưỡi dài cả vũ trụ như Kinh Di Đà mà tin vào chuyện đó (nghĩa bóng bẩy mà thôi). Ngài từ người thường như chúng ta mà thành Phật được. Chúng ta trên lý thuyết cũng có thể thành Phật được. Đó là tin vui.
Bài Kinh ấy đây:

"II. Cung Kính.
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Uruvelà trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Ajapàla Nigrodha, khi Ngài mới thành đạo.
2) Và Thế Tôn trong khi Thiền tịnh độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Thật là khó khăn, sống không có cung kính, không có vâng lời. Vậy Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn".
3) Rồi Thế Tôn, suy nghĩ: "Với mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn chưa được đầy đủ, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn khác. Nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, Ác ma và Phạm thiên, giữa các Sa-môn, giữa quần chúng loài Trời hay loài Người, không có một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, với giới uẩn cụ túc, tốt đẹp hơn Ta mà Ta có thể cung kính, tôn trọng và sống y chỉ".
4) "Với mục đích làm cho đầy đủ định uẩn chưa được đầy đủ, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn khác..."
5) "Với mục đích làm cho đầy đủ tuệ uẩn chưa được đầy đủ..."
6) " Với mục đích làm cho đầy đủ giải thoát uẩn chưa được đầy đủ..."
7) "Với mục đích làm cho đầy đủ giải thoát tri kiến uẩn chưa được đầy đủ, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn khác. Nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, Ác ma và Phạm thiên, giữa quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, giữa loài Trời hay loài Người, không có một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, với giải thoát tri kiến uẩn tốt đẹp hơn Ta mà Ta có thể cung kính, tôn trọng và sống y chỉ".
8) "Với pháp này, Ta đã chánh đẳng giác, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ pháp này".
9) Rồi Phạm thiên Sahampati với tâm tư của mình biết được tâm tư của Thế Tôn, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, vị ấy biến mất ở Phạm thiên giới và hiện ra trước mặt Thế Tôn.
10) Rồi Phạm thiên Sahamapati đắp thượng y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
11) -- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn, trong thời quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, chư Thế Tôn ấy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào (Chánh) pháp. Bạch Thế Tôn, trong thời vị lai, các vị ấy sẽ thành A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, chư Thế Tôn ấy sẽ cung kính, tôn trọng và sẽ sống y chỉ vào (Chánh) pháp. Bạch Thế Tôn, mong rằng trong thời hiện tại, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác cũng cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào (Chánh) pháp.
12) Phạm thiên Sahampati nói như vậy, sau khi nói như vậy, lại nói thêm như sau:
Chư Phật thời quá khứ,
Chư Phật thời vị lai,
Và đức Phật hiện tại,
Ðoạn sầu muộn nhiều người.
Tất cả các vị ấy,
Ðã, đang và sẽ sống,
Cung kính và tôn trọng,
Pháp chơn chánh vi diệu,
Pháp nhĩ là như vậy,
Ðối với chư Phật-đà.
Do vậy, muốn lợi ích,
Ước vọng làm Ðại nhân,
Hãy cung kính, tôn trọng
Pháp chơn chánh vi diệu,
Hãy ghi nhớ giáo pháp,
Chư Phật Chánh Ðẳng Giác."

Bài này nằm trong Tương Ưng Bộ Kinh: https://www.budsas.org/uni/u-kinh-tuongungbo/tu1-06.htm?fbclid=IwAR0bLTXH0Izria1osSRYdESyXOMRZG_bGsfzu1qvsd46dFGuYbQmK2wbSHM

Comments
0 Comments
Facebook Comments by Blogger Widgets

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét