Buddhist/Mahayanist Logic



Should include Logic from Mario's class.

Read More »

Thu Berkeley

Trên những chặng đường quen từ thành phố Berkeley êm đềm mình đang sống về San Jose, mùa thu nhẹ nhàng hiển bày với lác đác lá vàng lá đỏ. Thu Berkeley không biểu hiện rõ như những tiểu bang miền bắc, nhưng cũng đủ để cảm nhận được thi tứ của mùa thơ: thoảng sắc màu, dịu dàng, mát mẻ. Những dãy nhà lơ thơ, những con phố không lớn, những cây lá dập dìu— thu Berkeley cũng nên thơ và đẹp ngơ ngẩn như con người Berkeley. Ta yêu thành phố bé nhỏ này tự khi nào ấy nhỉ?
Read More »

Các Mae Chi ở Thái

Bài viết này gần 10 năm trước (2010) của Steven Collins (vừa qua đời) và Justin McDaniel, 2 nhà Phật Học rất uyên bác của Mỹ, về các tu nữ (mae chi) Phật Giáo Thái và việc học Pali nhìn từ góc độ Nhân Chủng Học: Buddhist "nun" (Mae Chi) and the teaching of Pali in contemporary Thailand. Lâu lâu mới thấy 2 học giả cùng viết một bài chung. Có duyên ai đó nên dịch nhiều tài liệu của hai gs này ra Việt.
Có 1 ý là nếu một vị tăng tốt nghiệp cấp độ 9 Pali thì được nhận 3 ngàn baht (100 đô Mỹ) một tháng, trong khi một mae chie thì cũng ở mức đó chỉ được nhận 1700 (hơn một nửa) baht. Điều này cho thấy Thái chú trọng ngôn ngữ Pali cũng như họ có đãi ngộ cho tăng và tu nữ khá ổn. Có một số mae chi có vẻ đòi nữ quyền trong Phật Giáo nhiều hơn.
Một vấn đề nữa là nhìn chung Thái có rất ít tỳ kheo ni. Có một số nỗ lực làm sống dậy truyền thống tỳ kheo ni ở quốc gia này. Tuy vậy, các mae chi lại không hào hứng gì việc này (qua phỏng vấn và bảng các câu hỏi--phương pháp điển hình trong nhân chủng học). Một số bảo họ khá ổn trong vai trò mae chi nên chả biết tỳ kheo ni có khá hơn địa vị của họ hay không. Hơn nữa, ai cũng có khả năng giác ngộ nên mae chi cũng thế: tại sao phải cần tỳ kheo ni? Rồi thì quyền lợi mae chi, như đã nêu từ đầu, cũng thua tăng; tỳ kheo ni cho đúng truyền thống thì cũng chả bình đẳng với tăng nên tại sao phải cần tỳ kheo ni.
Bài viết còn chia sẻ về rất nhiều mae chi là giảng viên các Đại học Phật Giáo về Phật Học hay Pali và có dạy cho cả tăng nữa.
Phần dưới đây không có trong bài trên: Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh truyền đạo vào Thái Lan đã 1 thập kỉ rồi và có cả trăm tỳ kheo ni ở đất nước này. Tất nhiên, thiền sư Nhất Hạnh theo nguồn gốc Bắc Tông còn duy trì tỳ kheo ni. Điều này khác với Nam Tông đã mất đi sự truyền thừa tỳ kheo ni.
Read More »

4 Tiêu Chí Của Một Tôn Giáo Hay

Ambedkar (Ấn Độ, 1891-1956) là người cải đạo cho đông đảo người nhất thế kỉ 20. Giai cấp dưới giai cấp (the Untouchables) ở Ấn Độ đã theo ông quy y theo Phật Giáo đông đảo. Ambedkar đã lấy tiến sĩ ở Đại học Columbia rồi hậu tiến sĩ ở Đại học Bonn một trăm năm trước.
Theo Ambedkar thì một tôn giáo "xịn" phải thoả mãn 4 tiêu chí sau:
1. Such a faith must foster morality (đức tin phải thúc đẩy đạo đức)
2. Accord with scientific reason (phù hợp với lý tính khoa học)
3. Offer liberty, equality, and fraternity (cung cấp tự do, bình đẳng, và tình huynh đệ)
4. Not sanctify or ennoble poverty (và không biện hộ hoặc cao quý hoá đói nghèo).
Theo ông thì chỉ mỗi Đạo Phật đáp ứng các yếu tố đó.

Đây là quan điểm của cá nhân ông.
Image may contain: text
Read More »

Reciprocity: Có Qua Có Lại

Reciprocity nghĩa là có qua có lại. Theo Tâm Lý Học Các Mối Quan Hệ (Psychology of Relationships) thì mối quan hệ có bền hay không phải có quy luật này. Trong kinh tế thì kiểu bánh ít đi, bánh quy lại. Ngày nay, cái điện thoại không chỉ là quyền lợi cho mình muốn gọi ai thì gọi mà còn nghĩa vụ nhận cuộc gọi. Có người khi họ muốn gọi ai thì họ gọi; khi không muốn gọi nữa họ khoá máy hay đổi số. Đến khi họ cần họ gọi người khác thì người kia không trả lời. Lý do là khi người ta gọi anh mà anh không trả lời (vì anh khoá máy hay đổi số) thì tại sao khi anh cần anh gọi họ và muốn họ phải trả lời? Khi đó bắt đầu hiểu rằng điện thoại cũng là một giao dịch dạng 2 chiều, reciprocity.
Tag trên Facebook cũng thế. Có người cứ tag người ta một số ảnh về cá nhân họ, hay đồ vật thuộc về họ vào facebook người khác và người kia chấp nhận cho xuất hiện trên wall của họ. Nhưng khi người khác tag lại thì người này không muốn để ảnh ấy vào tường của mình. Nếu làm nhiều lần như vậy thì người kia không thích vì không có qua có lại trên facebook.

Để mối quan hệ bền thì cần reciprocity, không những trong kinh tế, điện thoại, facebook mà còn trong nhiều lĩnh vực.
Có người còn chia reciprocity làm 3 dạng:
1. Negative reciprocity: kiểu như có qua có lại nhưng hơi xạo hay lừa. Thí dụ bảo tao bán hàng này mày đưa tiền trước. Sau đó trốn luôn mà không đưa hàng. Ví dụ nữa là bán hàng giả. Thí dụ lấy một viên thuốc tốt ở Pháp về pha thêm bột mì thành 3 viên bán. Cũng có thể là kiểu bán táo mà đề giá 10 ngàn nửa kí mà chữ "nửa" viết rất nhỏ, còn chữ "10 ngàn" và chữ "kí" viết bự. Còn ví dụ nữa là khi có người từ xa đến họ hỏi muốn đến chơi nhà. Người này hỏi vâng xin mời hồ hởi lắm nhưng hỏi khi nào ông đến thành phố này? Trong 1 tuần từ ngày này đến ngày này. Thế là người này bảo không tôi đi nơi khác rồi mặc dù rất muốn tiếp đón.
2. Balanced reciprocity: kiểu này là thuận mua vừa bán giữa hai người. Thí dụ vào tiệm ăn món nhưng đã thấy giá trước rồi khách kêu món và ăn. Đây là giao dịch trực tiếp giữa khách và chủ quán. Còn một giao dịch trực tiếp nữa cũng đang diễn ra là bồi bàn phục vụ khách chu đáo thì khách cho tiền tip nhiều; phục vụ kém thì cho ít hay không cho. Một số cha mẹ nuôi nấng con cái với mong muốn sau này về già nó sẽ có hiếu chăm sóc lại mình.
3. Generalized reciprocity: kiểu này như A cho B, rồi B cho C, rồi C cho D,...cho đến một lúc nào đó có ai đó vay cơ hội nào sẽ đến với A trở lại. Ví dụ là một số tổ chức bất đồng chánh kiến với chính quyền nào đó. Họ muốn lật đổ chính quyền để lãnh đạo đất nước. Họ cấp một số học bổng cho dân nhưng thực ra chỉ cho con cái những người chống đối chính quyền. Sau này những đứa đó sẽ học giỏi về làm việc cho, hay hỗ trợ, tổ chức bất đồng chánh kiến này. Kiểu là người A cho tiền cho tổ chức B chống chính quyền; tổ chức B này cấp học bổng cho người C. Người C này sau này làm việc cho tổ chức để lật chính quyền D. Rồi từ đây chính quyền mới lên cho điều luật dễ thở cho công ty của người A nên người A đầu tư vào sinh lợi. Đây chỉ là ví dụ thôi. 
Read More »

Phật Học Thời Nay Hàn Lâm Hơn Thời Xưa

Một số ý kiến cho rằng thời hoàng kim của tôn giáo nói chung và Phật Giáo nói riêng đã ở trong quá khứ.
Thực ra chả ai chứng minh được nhận định này đâu.
Hiện tại, Phật Học ở một số quốc gia Tây Phương như Anh, Đức, Pháp, Canada, Úc, và đặc biệt Hoa Kỳ, cũng như vài nơi Á Châu như Nhật Bản, Hong Kong, và Singapore rất hàn lâm. Nó học thuật hơn ngày xưa nhiều. Một thí dụ.
Ngày xưa ở Trung Hoa đã đến lúc Phật Giáo rất thịnh và có nhiều nhân vật đi chuyên về một lĩnh vực như có vị chuyên Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Hoa Nghiêm, hay Duy Thức...Nhưng các vị vẫn không biết nhiều về các tôn giáo khác ở Ấn Độ như Ấn Độ Giáo, Kỳ Na Giáo...để so sánh đối chiếu với Đạo Phật vì một lý do là trong các tôn giáo Á Đông thì chỉ mỗi Đạo Phật là tôn giáo duy nhất có tính phổ quát, tức có thể áp dụng cho nhiều dân tộc (trên thế giới tuy có nhiều tôn giáo nhưng cũng chỉ có 2 tôn giáo nữa là Đạo Chúa và Đạo Hồi là tôn giáo phổ quát mà thôi). Mà tìm hiểu các tôn giáo Ấn Độ rất quan trọng trong việc hiểu Đạo Phật; nếu chỉ học Đạo Phật không thì nhiều khi mình chưa hiểu rõ Đạo Phật mà phải học các tôn giáo khác nữa mới hiểu thêm, hiểu rõ Đạo Phật. Có sự kiện nào đó ở Ấn Độ có ghi lại trong Phật Giáo, nhưng đối chiếu với Kỳ Na Giáo chẳng hạn thì lại thấy cách kể và kết quả khác nhau. Trong Phật Giáo có thể ông vua này là đệ tử Phật nhưng trong Kỳ Na Giáo, cũng ông vua ấy lại là đệ tử của Mahavira. Những khái niệm như Luân Hồi, Nghiệp, Niết Bàn...đã có trong Ấn Độ Giáo; những khái niệm như A Hàm, Tứ Chúng, Mâu Ni hay dùng con sư tử làm biểu tượng...cũng có trong Kỳ Na Giáo.
Khi Phật Giáo về Việt Nam thì mình cũng thế, không đủ tài liệu so sánh các tôn giáo Ấn Độ nên sự hiểu biết hạn chế.
Phật Học một số quốc gia kể trên thì khi học sau Đại học phải đi chuyên sâu về một lĩnh vực rất nhỏ nào đó. Hơn nữa, có nhiều nghiên cứu về các tôn giáo Ấn Độ, cũng như nhiều tôn giáo khác trên thế giới, nên có nhiều tài liệu cho chúng ta đối chiếu, so sánh.
Đây là ví dụ thôi để gợi ý là nghiên cứu Phật Học thời này tốt hơn thời xưa nhiều lắm. Mình sẽ viết tiếp về vấn đề này.
Read More »

Thành phần thứ ba


Trong chiến tranh Việt Nam có hai phe: miền bắc và miền nam. Mỗi phe đều có đồng minh (lãnh đạo thì đúng hơn?) là những ông to với vũ khí hạt nhân khủng khiếp.
Còn một bên nữa gọi là thành phần thứ ba (third force hay third way). Nhóm này gồm một số trí thức, nhà nhân bản, có cả thiền sư...Nguyện vọng của thành phần thứ 3 này là không theo phe miền bắc, không theo phe miền nam, mà muốn hai khối kia rút ảnh hưởng về để dân Việt tự quyết định vận mạng. Đại khái là như vậy.
Tào Tháo cũng bảo mình Minh Quân mà Tôn Quyền cũng cho mình Chính Nghĩa. Trong khi đó, Lưu Bị thì bảo mình Nhân Đức. Bên nào cũng cho con đường của mình là đúng, là đạo đức chói ngời đồng thời chỉ ra những sai lầm của hai bên còn lại, ác quỷ hoá bên kia.
Vì thành phần thứ ba này không có sức mạnh bên ngoài nào đủ lớn hậu thuẫn, trong khi chính trong nội bộ chưa chắc đã một lòng, nên không thành công là chuyện hiển nhiên. Nếu lịch sử lặp lại thêm 10 lần thì cũng thất bại cả 10 thôi vì đơn giản hai khối kia đều có bom hạt nhân, quân sự khủng và kinh tế hùng hậu. Có một quy luật trên trường thế giới là kẻ mạnh sẽ làm tất cả mọi thứ nó có thể trong khi kẻ yếu phải chịu đựng tất cả những gì nó phải chịu. Khi con cọp và sư tử đấu nhau thì con nai, không có móng vuốt nên tự xưng chính nghĩa với lý thuyết không móng vuốt, muốn cả hai đừng giành giang sơn cũng chả thành công đâu. Con nai chưa bị xé xác là may lắm rồi.
Điều muốn nói ở đây là thành phần thứ ba này, và cả thế hệ kế tiếp của thành phần này, đều bị hai bên kia nghĩ nhóm ấy thuộc bên kia. Chính sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ hai bên đều làm cho sự nhận thức về thực tại trở nên khó khăn. Mỗi bên bị bóp méo thực tại cho có lợi về phía họ nên phe miền bắc thì nghĩ cá nhân/tổ chức ấy giống nhóm miền nam quá trong khi đó thì phe miền nam nghĩ nhóm ấy giống phe miền bắc quá. Cụ thể, khi một cá nhân thuộc thành phần thứ 3 này nói chuyện với nhóm người Hà Nội thì có thể nhóm Hà Nội này bảo gã này sau có vẻ chống Cộng hăng thế. Trong khi đó, nếu gã thuộc thành phần thứ 3 này nói với một nhóm người ở Santa Ana, nam Cali, thì nhóm này có thể bảo thằng cha này chắc là Cộng đây.

Read More »

Đông Phương Học Thực Chất và Hướng Đi



Lâm Nguyệt Th
Tp chí Human
Architecture
(kiến
trúc con ng
ười)
ở Hoa Kvừa ra
m
ột số đặc biệt
v
ề ttưởng tương
t
ức (Interbeing)
và
đạo Bt đi vào
cu
ộc đời (Engaged
Buddhism) c
a
Thi
ền sNhất
H
nh, với tiêu đề
Hình Tượng Xã
H
ội ca Thích
Nh
ất Hnh,
kh
o luận và phê
bình v
ề đạo Bt đi vào cuộc đời (Thích Nhất Hnh’s Sociological Imagination, Essays and Commentaries on Engaged Buddhism). Số báo đặc biệt này được ra mắt vào mùa H2008, Bộ VI, số 3. Chbút ca tờ báo là M.H.Tamdgidi, Giáo sxã hội hc ti Trường Đại hc University of Massachusetts ở Boston, Ma. Mở đầu số báo có bài giới thiệu ca Giáo sWinston Langley, quyền Viện trưởng Viện Đại Hc Boston, Giáo sChính trhc.
Ttưởng chỉ đạo ca số đặc biệt này có liên quan mật thiết với khoa Đông Phương Hc (Orientalism). Có những người không tin là Tây phương có khnng hiểu được Đông phương, dù đã có hn 200 nm Đông Phương Hc. Hnghngười Tây phương có cái nhìn quá nhnguyên và có sẵn cái óc kth. Vì vậy, hai trm nm nghiên cứu về Đông phương cng vẫn không giúp cho người Tây phương cởi bỏ được cái thành kiến là Đông phương thấp kém hn (inferior) Tây phương về mi phương diện. Edward Said, Giáo sư Đại Hc Columbia ở New York, nm 1978 (1) có viết một cuốn sách với tựa đề Đông Phương Hc (Orientalism), và cuốn sách này đã gây sóng gió trong giới ttưởng và triết hc phương Tây. Ông viết: “khoa Đông Phương Hc đại khái xuất hiện vào cuối thế kthứ 18... nhmột thể cách Tây phương nhằm thay đổi cấu trúc ca Đông phương và thống trị Đông phương” (Orientalism emerged roughly in the late 18th century... as a Western Style for dominating, restructuring and having authority over Orient). Bị ảnh hưởng ca Đông Phương Hc, những nhà Xã hội hc nổi tiếng nhKarl Marx và Max Weber cng đã có một cái nhìn méo mó về Đông phương. Khi nói đến cách thức sn xuất ca Châu Á, (the Asiatic Modes of Prodution) Marx cng đã bị ảnh hưởng bởi cái nhìn không thấu triệt ca Đông Phương Hc và đã phát biểu theo những giả định ca Đông Phương Hc.
Ông nói rằng cách thức sn xuất ở Á Châu bchi phối bởi những con người không có tự do cá nhân, những con người hoàn toàn bràng buộc với gia đình và xã hội; rằng con người cá nhân mà không được làm cá nhân, chcó thể được tìm thấy trong xã hội Trung Quốc thời xa (the non-individuated individuel was to be found in Ancient China), và do cách thức sn xuất cng nhdo những con người nhthế mà “hầu nhlà không thể có chội nào thay đổi được xã hội trong cách thức sn xuất ấy” (there was very little social change of anykind in societies with an Asiatic Mode of Production). Phương thức sn xuất ca Đông phương to ra những chế độ trung ương tập quyền nghiêm khắc, những vbo chúa tự xng mình là con trời, thiên tử, có quyền hn tuyệt đối trên người dân. Giáo sTamdgiti viết: với cái thấy duy vật, trần tc, vô thần, chống tôn giáo và với nh hưởng ca Đông Phương Hc, cái nhìn Mác - xít về Đông phương và về Châu Á không cho người ta thấy được những giá trthành tựu trí thức ca nền Vn Hóa phương Đông được ẩn chứa tiềm tàng trong hình thức đạo hc ca nền vn hóa này.
So sánh hai nền vn hóa, hcó khuynh hướng cho rằng Đông phương thì gii chu đựng khổ hnh còn Tây phương thì biết tranh đấu để chiến thắng, Đông phương thì tìm cách xoa du khổ đau và xa lánh cuộc đời, còn Tây phương thì sử dng trí tuệ để làm chvà thay đổi thế giới. Max Weber trong khi nghiên cứu các đạo Tin Lành, Do Thái và Phật giáo, đã bị ảnh hưởng lề thói tduy ca Đông Phương Hc khá nhiều, cho rằng có một khác biệt bn thể (ontological difference) giữa các nền kinh tế Đông phương và Tây Phương. Đạo Bt có khuynh hướng thụ động, bất cần, muốn rút ra, trong khi lề lối suy tca Tây phương là thực tế, hữu hiệu và nng động. Ví dtrong khi Tây phương cho sự chấp nhận chu đựng là yếu kém và thụ động thì đạo Bt li cho đó là một thái độ đại hùng, vô úy, chcó thể đạt được với quán chiếu sâu sắc. Khi gặp khó khn với đoàn thể hoặc với nhà cầm quyền thì người theo đạo Bt có khuynh hướng “rút lui” để thiền quán và tìm sự an i. Thiền quán chlà thụ động và chấp nhận. Giáo sLangley, Viện trưởng Viện Đại Hc Massachusetts, trong bài viết Thích Nhất Hnh, người ca Châu Á (Asia’s Thích Nhất Hnh) đã viết: Á Châu có những tuệ giác triết hc, đạo đức, xã hội, kinh tế và ý thức hệ rất thực tiễn có thể gii đáp được cho những vấn đề lớn lao ca xã hội mà con người đang phi đương đầu, những tuệ giác ấy được dựa trên nguyên tắc tương quan tương duyên. Tu thân cng quan trng nhtề gia, trquốc và bình thiên h. Ta không có hy vng thay đổi và chuyển hóa những điều kiện đang đe da và làm cho xuống cấp con người cng nhmôi trường ca con người, nếu ta không biết tự tu, tu với nhau, và trong tinh thần tương tức. Giáo scng nói rằng Á Châu từ nay không cần bận tâm về những cái mgiả định mà Tây phương đđội vào cho mình lâu nay
49
(nhthụ động, tiêu cực...) nữa mà có thể với những thành quả đạt được trong lnh vực gii phóng, đi vào ngay trong lãnh thổ ca những người đã dán danh hiệu cho mình lâu nay, để giúp lãnh đạo cho việc chữa trtập thể. Những người nhMahatma Gandhi và Thích Nhất Hnh không hề có mặc cm, họ đã chứng tmột cách hùng hồn là ttưởng đạo hc Đông phương có khnng gii phóng và thay đổi xã hội. Và ta có thể nói tới những phương thức gii phóng ca Á Châu (the Asiatic Modes of Liberation...)
Tập san được chia làm bốn phần, bắt đầu bằng bài giới thiệu ca Giáo sViện trưởng. Phần đầu có vài bài pháp thoi mới, vài lá thvà một bài thca Thích Nhất Hnh với chủ đề đạo Bt đi vào cuộc đời - có liên hệ tới các vấn đề chiến tranh, xung đột, môi trường, knghệ thực phẩm, tiêu thvà lch sử phong trào đạo Bt vào đời. Phần thứ hai gồm những bài nghiên cứu và áp dng quan điểm đạo Bt nhập thế ca Thích Nhất Hnh vào khoa hc xã hội, khai thác sự trùng hợp giữa ttưởng ca Thầy với triết lý thực dng (Pragmatism) ca William James, với ttưởng môi trường sâu (Deep Ecology) ca Arne Naess, với triết lý xã hội, hình tượng xã hội và phân tích ý thức hệ. Phần thứ ba là by bài nghiên cứu áp dng ttưởng Thích Nhất Hnh trong các trường hợp nhgii quyết xung đột chính trquốc tế, đem chánh niệm và thiền tập vào hc đường, đem chánh niệm và ý thức tâm linh vào lãnh vực giữ trật tự an ninh trong các thành phố ở Hoa K, áp dng chánh niệm và thiền quán để trliệu trong trường hợp những người bám nh vì chiến tranh, đem ý niệm đạo Bt vào đời vào lý thuyết kinh tế và guồng máy kinh tế, tduy về đạo Bt vào đời để tìm ra những phương thuật hữu hiệu đối phó được với cuộc khng hong sinh môi và hâm nóng địa cầu, và sau hết là dùng ttưởng đạo Bt vào đời để đối trvới những thương đau, mất mát và bất hnh trong gia đình. Phần thứ tư đăng một bài tiêu biểu cho lối tduy Tây phương không hiểu thấu được cái tinh hoa ca tinh thần đạo hc Đông phương do một vgiáo stuy đang ging dy về ttưởng Thích Nhất Hnh nhng không thực sự nắm được ttưởng Thích Nhất Hnh và tiếp theo là một bài ca scô Chân Tùng Nghiêm soi sáng li cho bài nói trên.
Sau đây xin mời các bn đọc bài giới thiệu tập san Human Architecture ca Giáo sLangley
Thích Nhất Hnh, con người ca Châu Á
(Những phương thức Á Đông nhằm gii phóng con người và xã hội)
Ti Tây phương và cả ở những vùng khác trên thế giới đã chu nh hưởng nặng nề ca vn hóa Tây phương, danh từ Đông phương thường mang một ý ngha tiêu cực và thua kém. Tây phương đã nhìn và đã gi lc địa Châu Á và người Châu Á với tiêu chuẩn ca nền nhân
bn Tây phương, cho vn hóa Đông phương là thấp kém và con người Đông phương thiếu tự do.
Cố hc giEdward Said, tác gicuốn Đông Phương Hc, đã nói lên với rất nhiều can đảm rằng những ý niệm và từ ngữ mà Tây phương sử dng để miêu tả Đông phương chứa đựng nhiều mâu thuẫn, úp mở và lúng túng. Ông đã dùng nhiều nm tháng ca đời mình để vch trần bộ mặt ca cái gi là Đông Phương Hc, đđưa ra những đề tài phn bác đường lối nghiên cứu ấy và đã to rất nhiều không gian và chội để chúng ta có thể vch li hướng đi cho một nền Đông Phương Hc đứng đắn.
Tuy cuốn sách đđạt tới những thành tựu lớn lao, nhng tác givẫn cha thiết lập ra được những tiêu chuẩn để các dân tộc trên thế giới có thể to dựng một tương lai chung. Nhng nói về những phương thức ca Á Đông nhằm gii phóng con người và xã hội (The Asiatic Modes of Liberation), thì ta đã có thể bắt đầu bằng những quy tắc tìm thấy trong đạo Bt nhập thế (Engaged Buddhism).
Tôi hiểu gii phóng ở đây có ngha là những hành động và những quá trình gii phóng trong lnh vực sự sống và hành xử cá nhân, ý ngha cuộc đời, tuệ giác và liên hệ giữa con người và con người. Á Châu có những nguồn tuệ giác thực tiễn trong các lnh vực triết hc, đạo hc, xã hội, kinh tế và ý thức hệ, có khnng đối phó và gii quyết được những vấn đề lớn nhất ca nhân loi hiện nay. Những tuệ giác ấy đã dựa trên nền tng tương quan tương duyên giữa vn vật. Những đạo lý tu tập để chuyển hóa tự thân cng quan trng ngang bằng những nguyên tắc nhằm gii quyết các vấn đề triết hc và kinh tế. Công cuộc gii phóng xã hội không thể tách rời ra khi công cuộc gii phóng bn thân con người. Những nguyên lý nhtương tức, tương dung, tương duyên, vô ngã, cái ta riêng biệt và cái ta cộng đồng... không phi là chỉ để gii thích về vtrvn hữu mà còn là những phép tu tập chuyển hóa và hoàn thiện bn thân. Chúng cng là những hành động rất cần thiết cho sự hoàn thành bổn phận, tranh đấu cho nhân quyền và hoàn tất trách vca mình đối với xã hội.
Những phương thức Á Châu nhằm gii phóng con người và xã hội” còn nói lên rằng ta không thể nào thay đổi và chuyển hóa tình trng đang đe da và làm xuống cấp con người và trái đất nếu ta không biết cách tu tập để chuyển hóa bn thân, chuyển hóa cộng đồng và chuyển hóa mối liên hệ giữa con người và con người. Nó cng nói lên rằng Đông phương chẳng cần phi chua chát, cay cú hay bận tâm khi nghe Tây phương dùng những danh từ và khái niệm có tính cách chê bai, bóp méo và coi thường Đông Phương, mà trái li, với những thành quả đđạt được, Đông phương có thể đi ngay vào trong mnh đất Tây phương và giúp cho Tây phương chuyển
50
hóa và gii phóng. Sự có mặt lch sử ca Mahatma Gandhi là một ví d, không thể nào lầm lẫn được. Và thầy Nhất Hnh nữa, khi thầy dy chúng ta: trong khi đi tìm phương cách cứu vãn địa cầu, cnn nhân cng nhkgây ra tai nn, không ai có chội sống còn nếu còn có ý muốn loi trừ nhau.
Những bài kho cứu trong tập san này đều có chđi về hướng chấp nhận nhau, ôm lấy nhau, gn lc tâm ý mình và thực hiện con người toàn vn. Tập san này đã thành công trong việc vinh danh cuộc đời và sự nghiệp ging dy ca thầy Nhất Hnh, trong đó có chtrương đem đạo Bt đi vào cuộc đời.􏰀
_______________________
Tác gi
Winston Langley là giáo schính Chính trhc ti trường Đại Hc Massasuchetts. Ông cng dy về nhiều môn khác nhLuật Lệ Quốc Tế và Nhân Quyền. Ông hiện là Quyền Viện Trưởng Viện Đại Hc Massasuchetts. Trong các tác phẩm đã ra đời ca ông, ta có thể kể: Women Rights in the US: A Documentary History và Human Rights: The Major Global Instruments. _______________________
(1) Orientalism, Edward Said, Vintage Book, 1978, ISBN 0-394-74067-X
Read More »