Thu Berkeley
Trên những chặng đường quen từ thành phố Berkeley êm đềm mình đang sống
về San Jose, mùa thu nhẹ nhàng hiển bày với lác đác lá vàng lá đỏ. Thu
Berkeley không biểu hiện rõ như những tiểu bang miền bắc, nhưng cũng đủ
để cảm nhận được thi tứ của mùa thơ: thoảng sắc màu, dịu dàng, mát mẻ.
Những dãy nhà lơ thơ, những con phố không lớn, những cây lá dập dìu— thu
Berkeley cũng nên thơ và đẹp ngơ ngẩn như con người Berkeley. Ta yêu
thành phố bé nhỏ này tự khi nào ấy nhỉ?
Read More »
Các Mae Chi ở Thái
Bài viết này gần 10 năm trước (2010) của Steven Collins (vừa qua đời) và
Justin McDaniel, 2 nhà Phật Học rất uyên bác của Mỹ, về các tu nữ (mae
chi) Phật Giáo Thái và việc học Pali nhìn từ góc độ Nhân Chủng Học: Buddhist "nun" (Mae Chi) and the teaching of Pali in contemporary Thailand. Lâu
lâu mới thấy 2 học giả cùng viết một bài chung. Có duyên ai đó nên dịch
nhiều tài liệu của hai gs này ra Việt.
Có 1 ý là nếu một vị tăng tốt nghiệp cấp độ 9 Pali thì được nhận 3 ngàn baht (100 đô Mỹ) một tháng, trong khi một mae chie thì cũng ở mức đó chỉ được nhận 1700 (hơn một nửa) baht. Điều này cho thấy Thái chú trọng ngôn ngữ Pali cũng như họ có đãi ngộ cho tăng và tu nữ khá ổn. Có một số mae chi có vẻ đòi nữ quyền trong Phật Giáo nhiều hơn.
Một vấn đề nữa là nhìn chung Thái có rất ít tỳ kheo ni. Có một số nỗ lực làm sống dậy truyền thống tỳ kheo ni ở quốc gia này. Tuy vậy, các mae chi lại không hào hứng gì việc này (qua phỏng vấn và bảng các câu hỏi--phương pháp điển hình trong nhân chủng học). Một số bảo họ khá ổn trong vai trò mae chi nên chả biết tỳ kheo ni có khá hơn địa vị của họ hay không. Hơn nữa, ai cũng có khả năng giác ngộ nên mae chi cũng thế: tại sao phải cần tỳ kheo ni? Rồi thì quyền lợi mae chi, như đã nêu từ đầu, cũng thua tăng; tỳ kheo ni cho đúng truyền thống thì cũng chả bình đẳng với tăng nên tại sao phải cần tỳ kheo ni.
Bài viết còn chia sẻ về rất nhiều mae chi là giảng viên các Đại học Phật Giáo về Phật Học hay Pali và có dạy cho cả tăng nữa.
Phần dưới đây không có trong bài trên: Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh truyền đạo vào Thái Lan đã 1 thập kỉ rồi và có cả trăm tỳ kheo ni ở đất nước này. Tất nhiên, thiền sư Nhất Hạnh theo nguồn gốc Bắc Tông còn duy trì tỳ kheo ni. Điều này khác với Nam Tông đã mất đi sự truyền thừa tỳ kheo ni.
Read More »
Có 1 ý là nếu một vị tăng tốt nghiệp cấp độ 9 Pali thì được nhận 3 ngàn baht (100 đô Mỹ) một tháng, trong khi một mae chie thì cũng ở mức đó chỉ được nhận 1700 (hơn một nửa) baht. Điều này cho thấy Thái chú trọng ngôn ngữ Pali cũng như họ có đãi ngộ cho tăng và tu nữ khá ổn. Có một số mae chi có vẻ đòi nữ quyền trong Phật Giáo nhiều hơn.
Một vấn đề nữa là nhìn chung Thái có rất ít tỳ kheo ni. Có một số nỗ lực làm sống dậy truyền thống tỳ kheo ni ở quốc gia này. Tuy vậy, các mae chi lại không hào hứng gì việc này (qua phỏng vấn và bảng các câu hỏi--phương pháp điển hình trong nhân chủng học). Một số bảo họ khá ổn trong vai trò mae chi nên chả biết tỳ kheo ni có khá hơn địa vị của họ hay không. Hơn nữa, ai cũng có khả năng giác ngộ nên mae chi cũng thế: tại sao phải cần tỳ kheo ni? Rồi thì quyền lợi mae chi, như đã nêu từ đầu, cũng thua tăng; tỳ kheo ni cho đúng truyền thống thì cũng chả bình đẳng với tăng nên tại sao phải cần tỳ kheo ni.
Bài viết còn chia sẻ về rất nhiều mae chi là giảng viên các Đại học Phật Giáo về Phật Học hay Pali và có dạy cho cả tăng nữa.
Phần dưới đây không có trong bài trên: Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh truyền đạo vào Thái Lan đã 1 thập kỉ rồi và có cả trăm tỳ kheo ni ở đất nước này. Tất nhiên, thiền sư Nhất Hạnh theo nguồn gốc Bắc Tông còn duy trì tỳ kheo ni. Điều này khác với Nam Tông đã mất đi sự truyền thừa tỳ kheo ni.
4 Tiêu Chí Của Một Tôn Giáo Hay
Ambedkar (Ấn Độ, 1891-1956) là người cải đạo cho đông đảo người nhất thế kỉ 20. Giai cấp dưới giai cấp (the Untouchables) ở Ấn Độ đã theo ông quy y theo Phật Giáo đông đảo. Ambedkar đã lấy tiến sĩ ở Đại học Columbia rồi hậu tiến sĩ ở Đại học Bonn một trăm năm trước.
Theo Ambedkar thì một tôn giáo "xịn" phải thoả mãn 4 tiêu chí sau:
1. Such a faith must foster morality (đức tin phải thúc đẩy đạo đức)
2. Accord with scientific reason (phù hợp với lý tính khoa học)
3. Offer liberty, equality, and fraternity (cung cấp tự do, bình đẳng, và tình huynh đệ)
4. Not sanctify or ennoble poverty (và không biện hộ hoặc cao quý hoá đói nghèo).
Theo ông thì chỉ mỗi Đạo Phật đáp ứng các yếu tố đó.
Đây là quan điểm của cá nhân ông.
Read More »
Theo Ambedkar thì một tôn giáo "xịn" phải thoả mãn 4 tiêu chí sau:
1. Such a faith must foster morality (đức tin phải thúc đẩy đạo đức)
2. Accord with scientific reason (phù hợp với lý tính khoa học)
3. Offer liberty, equality, and fraternity (cung cấp tự do, bình đẳng, và tình huynh đệ)
4. Not sanctify or ennoble poverty (và không biện hộ hoặc cao quý hoá đói nghèo).
Theo ông thì chỉ mỗi Đạo Phật đáp ứng các yếu tố đó.
Đây là quan điểm của cá nhân ông.

Reciprocity: Có Qua Có Lại
Reciprocity nghĩa là có qua có lại. Theo Tâm Lý Học Các Mối Quan Hệ
(Psychology of Relationships) thì mối quan hệ có bền hay không phải có
quy luật này. Trong kinh tế thì kiểu
bánh ít đi, bánh quy lại. Ngày nay, cái điện thoại không chỉ là quyền
lợi cho mình muốn gọi ai thì gọi mà còn nghĩa vụ nhận cuộc gọi. Có người
khi họ muốn gọi ai thì họ gọi; khi không muốn gọi nữa họ khoá máy hay
đổi số. Đến khi họ cần họ gọi người khác thì người kia không trả lời. Lý
do là khi người ta gọi anh mà anh không trả lời (vì anh khoá máy hay
đổi số) thì tại sao khi anh cần anh gọi họ và muốn họ phải trả lời? Khi
đó bắt đầu hiểu rằng điện thoại cũng là một giao dịch dạng 2 chiều,
reciprocity.
Tag trên Facebook cũng thế. Có người cứ tag người ta một số ảnh về cá nhân họ, hay đồ vật thuộc về họ vào facebook người khác và người kia chấp nhận cho xuất hiện trên wall của họ. Nhưng khi người khác tag lại thì người này không muốn để ảnh ấy vào tường của mình. Nếu làm nhiều lần như vậy thì người kia không thích vì không có qua có lại trên facebook.
Read More »
Tag trên Facebook cũng thế. Có người cứ tag người ta một số ảnh về cá nhân họ, hay đồ vật thuộc về họ vào facebook người khác và người kia chấp nhận cho xuất hiện trên wall của họ. Nhưng khi người khác tag lại thì người này không muốn để ảnh ấy vào tường của mình. Nếu làm nhiều lần như vậy thì người kia không thích vì không có qua có lại trên facebook.
Để mối quan hệ bền thì cần reciprocity, không những trong kinh tế, điện thoại, facebook mà còn trong nhiều lĩnh vực.
Có người còn chia reciprocity làm 3 dạng:
1. Negative reciprocity: kiểu như có qua có lại nhưng hơi xạo hay lừa. Thí dụ bảo tao bán hàng này mày đưa tiền trước. Sau đó trốn luôn mà không đưa hàng. Ví dụ nữa là bán hàng giả. Thí dụ lấy một viên thuốc tốt ở Pháp về pha thêm bột mì thành 3 viên bán. Cũng có thể là kiểu bán táo mà đề giá 10 ngàn nửa kí mà chữ "nửa" viết rất nhỏ, còn chữ "10 ngàn" và chữ "kí" viết bự. Còn ví dụ nữa là khi có người từ xa đến họ hỏi muốn đến chơi nhà. Người này hỏi vâng xin mời hồ hởi lắm nhưng hỏi khi nào ông đến thành phố này? Trong 1 tuần từ ngày này đến ngày này. Thế là người này bảo không tôi đi nơi khác rồi mặc dù rất muốn tiếp đón.
2. Balanced reciprocity: kiểu này là thuận mua vừa bán giữa hai người. Thí dụ vào tiệm ăn món nhưng đã thấy giá trước rồi khách kêu món và ăn. Đây là giao dịch trực tiếp giữa khách và chủ quán. Còn một giao dịch trực tiếp nữa cũng đang diễn ra là bồi bàn phục vụ khách chu đáo thì khách cho tiền tip nhiều; phục vụ kém thì cho ít hay không cho. Một số cha mẹ nuôi nấng con cái với mong muốn sau này về già nó sẽ có hiếu chăm sóc lại mình.
3. Generalized reciprocity: kiểu này như A cho B, rồi B cho C, rồi C cho D,...cho đến một lúc nào đó có ai đó vay cơ hội nào sẽ đến với A trở lại. Ví dụ là một số tổ chức bất đồng chánh kiến với chính quyền nào đó. Họ muốn lật đổ chính quyền để lãnh đạo đất nước. Họ cấp một số học bổng cho dân nhưng thực ra chỉ cho con cái những người chống đối chính quyền. Sau này những đứa đó sẽ học giỏi về làm việc cho, hay hỗ trợ, tổ chức bất đồng chánh kiến này. Kiểu là người A cho tiền cho tổ chức B chống chính quyền; tổ chức B này cấp học bổng cho người C. Người C này sau này làm việc cho tổ chức để lật chính quyền D. Rồi từ đây chính quyền mới lên cho điều luật dễ thở cho công ty của người A nên người A đầu tư vào sinh lợi. Đây chỉ là ví dụ thôi.
Có người còn chia reciprocity làm 3 dạng:
1. Negative reciprocity: kiểu như có qua có lại nhưng hơi xạo hay lừa. Thí dụ bảo tao bán hàng này mày đưa tiền trước. Sau đó trốn luôn mà không đưa hàng. Ví dụ nữa là bán hàng giả. Thí dụ lấy một viên thuốc tốt ở Pháp về pha thêm bột mì thành 3 viên bán. Cũng có thể là kiểu bán táo mà đề giá 10 ngàn nửa kí mà chữ "nửa" viết rất nhỏ, còn chữ "10 ngàn" và chữ "kí" viết bự. Còn ví dụ nữa là khi có người từ xa đến họ hỏi muốn đến chơi nhà. Người này hỏi vâng xin mời hồ hởi lắm nhưng hỏi khi nào ông đến thành phố này? Trong 1 tuần từ ngày này đến ngày này. Thế là người này bảo không tôi đi nơi khác rồi mặc dù rất muốn tiếp đón.
2. Balanced reciprocity: kiểu này là thuận mua vừa bán giữa hai người. Thí dụ vào tiệm ăn món nhưng đã thấy giá trước rồi khách kêu món và ăn. Đây là giao dịch trực tiếp giữa khách và chủ quán. Còn một giao dịch trực tiếp nữa cũng đang diễn ra là bồi bàn phục vụ khách chu đáo thì khách cho tiền tip nhiều; phục vụ kém thì cho ít hay không cho. Một số cha mẹ nuôi nấng con cái với mong muốn sau này về già nó sẽ có hiếu chăm sóc lại mình.
3. Generalized reciprocity: kiểu này như A cho B, rồi B cho C, rồi C cho D,...cho đến một lúc nào đó có ai đó vay cơ hội nào sẽ đến với A trở lại. Ví dụ là một số tổ chức bất đồng chánh kiến với chính quyền nào đó. Họ muốn lật đổ chính quyền để lãnh đạo đất nước. Họ cấp một số học bổng cho dân nhưng thực ra chỉ cho con cái những người chống đối chính quyền. Sau này những đứa đó sẽ học giỏi về làm việc cho, hay hỗ trợ, tổ chức bất đồng chánh kiến này. Kiểu là người A cho tiền cho tổ chức B chống chính quyền; tổ chức B này cấp học bổng cho người C. Người C này sau này làm việc cho tổ chức để lật chính quyền D. Rồi từ đây chính quyền mới lên cho điều luật dễ thở cho công ty của người A nên người A đầu tư vào sinh lợi. Đây chỉ là ví dụ thôi.
Phật Học Thời Nay Hàn Lâm Hơn Thời Xưa
Một số ý kiến cho rằng thời hoàng kim của tôn giáo nói chung và Phật Giáo nói riêng đã ở trong quá khứ.
Thực ra chả ai chứng minh được nhận định này đâu.
Hiện tại, Phật Học ở một số quốc gia Tây Phương như Anh, Đức, Pháp, Canada, Úc, và đặc biệt Hoa Kỳ, cũng như vài nơi Á Châu như Nhật Bản, Hong Kong, và Singapore rất hàn lâm. Nó học thuật hơn ngày xưa nhiều. Một thí dụ.
Ngày xưa ở Trung Hoa đã đến lúc Phật Giáo rất thịnh và có nhiều nhân vật đi chuyên về một lĩnh vực như có vị chuyên Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Hoa Nghiêm, hay Duy Thức...Nhưng các vị vẫn không biết nhiều về các tôn giáo khác ở Ấn Độ như Ấn Độ Giáo, Kỳ Na Giáo...để so sánh đối chiếu với Đạo Phật vì một lý do là trong các tôn giáo Á Đông thì chỉ mỗi Đạo Phật là tôn giáo duy nhất có tính phổ quát, tức có thể áp dụng cho nhiều dân tộc (trên thế giới tuy có nhiều tôn giáo nhưng cũng chỉ có 2 tôn giáo nữa là Đạo Chúa và Đạo Hồi là tôn giáo phổ quát mà thôi). Mà tìm hiểu các tôn giáo Ấn Độ rất quan trọng trong việc hiểu Đạo Phật; nếu chỉ học Đạo Phật không thì nhiều khi mình chưa hiểu rõ Đạo Phật mà phải học các tôn giáo khác nữa mới hiểu thêm, hiểu rõ Đạo Phật. Có sự kiện nào đó ở Ấn Độ có ghi lại trong Phật Giáo, nhưng đối chiếu với Kỳ Na Giáo chẳng hạn thì lại thấy cách kể và kết quả khác nhau. Trong Phật Giáo có thể ông vua này là đệ tử Phật nhưng trong Kỳ Na Giáo, cũng ông vua ấy lại là đệ tử của Mahavira. Những khái niệm như Luân Hồi, Nghiệp, Niết Bàn...đã có trong Ấn Độ Giáo; những khái niệm như A Hàm, Tứ Chúng, Mâu Ni hay dùng con sư tử làm biểu tượng...cũng có trong Kỳ Na Giáo.
Khi Phật Giáo về Việt Nam thì mình cũng thế, không đủ tài liệu so sánh các tôn giáo Ấn Độ nên sự hiểu biết hạn chế.
Phật Học một số quốc gia kể trên thì khi học sau Đại học phải đi chuyên sâu về một lĩnh vực rất nhỏ nào đó. Hơn nữa, có nhiều nghiên cứu về các tôn giáo Ấn Độ, cũng như nhiều tôn giáo khác trên thế giới, nên có nhiều tài liệu cho chúng ta đối chiếu, so sánh.
Đây là ví dụ thôi để gợi ý là nghiên cứu Phật Học thời này tốt hơn thời xưa nhiều lắm. Mình sẽ viết tiếp về vấn đề này.
Read More »
Thực ra chả ai chứng minh được nhận định này đâu.
Hiện tại, Phật Học ở một số quốc gia Tây Phương như Anh, Đức, Pháp, Canada, Úc, và đặc biệt Hoa Kỳ, cũng như vài nơi Á Châu như Nhật Bản, Hong Kong, và Singapore rất hàn lâm. Nó học thuật hơn ngày xưa nhiều. Một thí dụ.
Ngày xưa ở Trung Hoa đã đến lúc Phật Giáo rất thịnh và có nhiều nhân vật đi chuyên về một lĩnh vực như có vị chuyên Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Hoa Nghiêm, hay Duy Thức...Nhưng các vị vẫn không biết nhiều về các tôn giáo khác ở Ấn Độ như Ấn Độ Giáo, Kỳ Na Giáo...để so sánh đối chiếu với Đạo Phật vì một lý do là trong các tôn giáo Á Đông thì chỉ mỗi Đạo Phật là tôn giáo duy nhất có tính phổ quát, tức có thể áp dụng cho nhiều dân tộc (trên thế giới tuy có nhiều tôn giáo nhưng cũng chỉ có 2 tôn giáo nữa là Đạo Chúa và Đạo Hồi là tôn giáo phổ quát mà thôi). Mà tìm hiểu các tôn giáo Ấn Độ rất quan trọng trong việc hiểu Đạo Phật; nếu chỉ học Đạo Phật không thì nhiều khi mình chưa hiểu rõ Đạo Phật mà phải học các tôn giáo khác nữa mới hiểu thêm, hiểu rõ Đạo Phật. Có sự kiện nào đó ở Ấn Độ có ghi lại trong Phật Giáo, nhưng đối chiếu với Kỳ Na Giáo chẳng hạn thì lại thấy cách kể và kết quả khác nhau. Trong Phật Giáo có thể ông vua này là đệ tử Phật nhưng trong Kỳ Na Giáo, cũng ông vua ấy lại là đệ tử của Mahavira. Những khái niệm như Luân Hồi, Nghiệp, Niết Bàn...đã có trong Ấn Độ Giáo; những khái niệm như A Hàm, Tứ Chúng, Mâu Ni hay dùng con sư tử làm biểu tượng...cũng có trong Kỳ Na Giáo.
Khi Phật Giáo về Việt Nam thì mình cũng thế, không đủ tài liệu so sánh các tôn giáo Ấn Độ nên sự hiểu biết hạn chế.
Phật Học một số quốc gia kể trên thì khi học sau Đại học phải đi chuyên sâu về một lĩnh vực rất nhỏ nào đó. Hơn nữa, có nhiều nghiên cứu về các tôn giáo Ấn Độ, cũng như nhiều tôn giáo khác trên thế giới, nên có nhiều tài liệu cho chúng ta đối chiếu, so sánh.
Đây là ví dụ thôi để gợi ý là nghiên cứu Phật Học thời này tốt hơn thời xưa nhiều lắm. Mình sẽ viết tiếp về vấn đề này.
Thành phần thứ ba
Trong chiến tranh Việt Nam có hai phe: miền bắc và miền nam. Mỗi phe đều có đồng minh (lãnh đạo thì đúng hơn?) là những ông to với vũ khí hạt nhân khủng khiếp.
Còn một bên nữa gọi là thành phần thứ ba (third force hay third way). Nhóm này gồm một số trí thức, nhà nhân bản, có cả thiền sư...Nguyện vọng của thành phần thứ 3 này là không theo phe miền bắc, không theo phe miền nam, mà muốn hai khối kia rút ảnh hưởng về để dân Việt tự quyết định vận mạng. Đại khái là như vậy.
Tào Tháo cũng bảo mình Minh Quân mà Tôn Quyền cũng cho mình Chính Nghĩa. Trong khi đó, Lưu Bị thì bảo mình Nhân Đức. Bên nào cũng cho con đường của mình là đúng, là đạo đức chói ngời đồng thời chỉ ra những sai lầm của hai bên còn lại, ác quỷ hoá bên kia.
Vì thành phần thứ ba này không có sức mạnh bên ngoài nào đủ lớn hậu thuẫn, trong khi chính trong nội bộ chưa chắc đã một lòng, nên không thành công là chuyện hiển nhiên. Nếu lịch sử lặp lại thêm 10 lần thì cũng thất bại cả 10 thôi vì đơn giản hai khối kia đều có bom hạt nhân, quân sự khủng và kinh tế hùng hậu. Có một quy luật trên trường thế giới là kẻ mạnh sẽ làm tất cả mọi thứ nó có thể trong khi kẻ yếu phải chịu đựng tất cả những gì nó phải chịu. Khi con cọp và sư tử đấu nhau thì con nai, không có móng vuốt nên tự xưng chính nghĩa với lý thuyết không móng vuốt, muốn cả hai đừng giành giang sơn cũng chả thành công đâu. Con nai chưa bị xé xác là may lắm rồi.
Điều muốn nói ở đây là thành phần thứ ba này, và cả thế hệ kế tiếp của thành phần này, đều bị hai bên kia nghĩ nhóm ấy thuộc bên kia. Chính sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ hai bên đều làm cho sự nhận thức về thực tại trở nên khó khăn. Mỗi bên bị bóp méo thực tại cho có lợi về phía họ nên phe miền bắc thì nghĩ cá nhân/tổ chức ấy giống nhóm miền nam quá trong khi đó thì phe miền nam nghĩ nhóm ấy giống phe miền bắc quá. Cụ thể, khi một cá nhân thuộc thành phần thứ 3 này nói chuyện với nhóm người Hà Nội thì có thể nhóm Hà Nội này bảo gã này sau có vẻ chống Cộng hăng thế. Trong khi đó, nếu gã thuộc thành phần thứ 3 này nói với một nhóm người ở Santa Ana, nam Cali, thì nhóm này có thể bảo thằng cha này chắc là Cộng đây.
Đông Phương Học Thực Chất và Hướng Đi
Lâm Nguyệt Thư
Tạp chí Human
Architecture (kiến
trúc con người)
ở Hoa Kỳ vừa ra
một số đặc biệt
về tư tưởng tương
tức (Interbeing)
và đạo Bụt đi vào
cuộc đời (Engaged
Buddhism) của
Thiền sư Nhất
Hạnh, với tiêu đề
Hình Tượng Xã
Hội của Thích
Nhất Hạnh,
khảo luận và phê
bình về đạo Bụt đi vào cuộc đời (Thích Nhất Hạnh’s Sociological Imagination, Essays and Commentaries on Engaged Buddhism). Số báo đặc biệt này được ra mắt vào mùa Hạ 2008, Bộ VI, số 3. Chủ bút của tờ báo là M.H.Tamdgidi, Giáo sư xã hội học tại Trường Đại học University of Massachusetts ở Boston, Ma. Mở đầu số báo có bài giới thiệu của Giáo sư Winston Langley, quyền Viện trưởng Viện Đại Học Boston, Giáo sư Chính trị học.
Tư tưởng chỉ đạo của số đặc biệt này có liên quan mật thiết với khoa Đông Phương Học (Orientalism). Có những người không tin là Tây phương có khả năng hiểu được Đông phương, dù đã có hơn 200 năm Đông Phương Học. Họ nghĩ người Tây phương có cái nhìn quá nhị nguyên và có sẵn cái óc kỳ thị. Vì vậy, hai trăm năm nghiên cứu về Đông phương cũng vẫn không giúp cho người Tây phương cởi bỏ được cái thành kiến là Đông phương thấp kém hơn (inferior) Tây phương về mọi phương diện. Edward Said, Giáo sư Đại Học Columbia ở New York, năm 1978 (1) có viết một cuốn sách với tựa đề Đông Phương Học (Orientalism), và cuốn sách này đã gây sóng gió trong giới tư tưởng và triết học phương Tây. Ông viết: “khoa Đông Phương Học đại khái xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 18... như một thể cách Tây phương nhằm thay đổi cấu trúc của Đông phương và thống trị Đông phương” (Orientalism emerged roughly in the late 18th century... as a Western Style for dominating, restructuring and having authority over Orient). Bị ảnh hưởng của Đông Phương Học, những nhà Xã hội học nổi tiếng như Karl Marx và Max Weber cũng đã có một cái nhìn méo mó về Đông phương. Khi nói đến cách thức sản xuất của Châu Á, (the Asiatic Modes of Prodution) Marx cũng đã bị ảnh hưởng bởi cái nhìn không thấu triệt của Đông Phương Học và đã phát biểu theo những giả định của Đông Phương Học.
Ông nói rằng cách thức sản xuất ở Á Châu bị chi phối
bởi những con người không có tự do cá nhân, những
con người hoàn toàn bị ràng buộc với gia đình và xã hội;
rằng con người cá nhân mà không được làm cá nhân,
chỉ có thể được tìm thấy trong xã hội Trung Quốc thời
xưa (the non-individuated individuel was to be found in
Ancient China), và do cách thức sản xuất cũng như do
những con người như thế mà “hầu như là không thể có
cơ hội nào thay đổi được xã hội trong cách thức sản xuất
ấy” (there was very little social change of anykind in
societies with an Asiatic Mode of Production). Phương
thức sản xuất của Đông phương tạo ra những chế độ
trung ương tập quyền nghiêm khắc, những vị bạo chúa
tự xưng mình là con trời, thiên tử, có quyền hạn tuyệt
đối trên người dân. Giáo sư Tamdgiti viết: với cái thấy
duy vật, trần tục, vô thần, chống tôn giáo và với ảnh
hưởng của Đông Phương Học, cái nhìn Mác - xít về
Đông phương và về Châu Á không cho người ta thấy
được những giá trị thành tựu trí thức của nền Văn Hóa
phương Đông được ẩn chứa tiềm tàng trong hình thức
đạo học của nền văn hóa này.
So sánh hai nền văn hóa, họ có khuynh hướng cho rằng Đông phương thì giỏi chịu đựng khổ hạnh còn Tây phương thì biết tranh đấu để chiến thắng, Đông phương thì tìm cách xoa dịu khổ đau và xa lánh cuộc đời, còn Tây phương thì sử dụng trí tuệ để làm chủ và thay đổi thế giới. Max Weber trong khi nghiên cứu các đạo Tin Lành, Do Thái và Phật giáo, đã bị ảnh hưởng lề thói tư duy của Đông Phương Học khá nhiều, cho rằng có một khác biệt bản thể (ontological difference) giữa các nền kinh tế Đông phương và Tây Phương. Đạo Bụt có khuynh hướng thụ động, bất cần, muốn rút ra, trong khi lề lối suy tư của Tây phương là thực tế, hữu hiệu và năng động. Ví dụ trong khi Tây phương cho sự chấp nhận chịu đựng là yếu kém và thụ động thì đạo Bụt lại cho đó là một thái độ đại hùng, vô úy, chỉ có thể đạt được với quán chiếu sâu sắc. Khi gặp khó khăn với đoàn thể hoặc với nhà cầm quyền thì người theo đạo Bụt có khuynh hướng “rút lui” để thiền quán và tìm sự an ủi. Thiền quán chỉ là thụ động và chấp nhận. Giáo sư Langley, Viện trưởng Viện Đại Học Massachusetts, trong bài viết Thích Nhất Hạnh, người của Châu Á (Asia’s Thích Nhất Hạnh) đã viết: Á Châu có những tuệ giác triết học, đạo đức, xã hội, kinh tế và ý thức hệ rất thực tiễn có thể giải đáp được cho những vấn đề lớn lao của xã hội mà con người đang phải đương đầu, những tuệ giác ấy được dựa trên nguyên tắc tương quan tương duyên. Tu thân cũng quan trọng như tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Ta không có hy vọng thay đổi và chuyển hóa những điều kiện đang đe dọa và làm cho xuống cấp con người cũng như môi trường của con người, nếu ta không biết tự tu, tu với nhau, và trong tinh thần tương tức. Giáo sư cũng nói rằng Á Châu từ nay không cần bận tâm về những cái mũ giả định mà Tây phương đã đội vào cho mình lâu nay
So sánh hai nền văn hóa, họ có khuynh hướng cho rằng Đông phương thì giỏi chịu đựng khổ hạnh còn Tây phương thì biết tranh đấu để chiến thắng, Đông phương thì tìm cách xoa dịu khổ đau và xa lánh cuộc đời, còn Tây phương thì sử dụng trí tuệ để làm chủ và thay đổi thế giới. Max Weber trong khi nghiên cứu các đạo Tin Lành, Do Thái và Phật giáo, đã bị ảnh hưởng lề thói tư duy của Đông Phương Học khá nhiều, cho rằng có một khác biệt bản thể (ontological difference) giữa các nền kinh tế Đông phương và Tây Phương. Đạo Bụt có khuynh hướng thụ động, bất cần, muốn rút ra, trong khi lề lối suy tư của Tây phương là thực tế, hữu hiệu và năng động. Ví dụ trong khi Tây phương cho sự chấp nhận chịu đựng là yếu kém và thụ động thì đạo Bụt lại cho đó là một thái độ đại hùng, vô úy, chỉ có thể đạt được với quán chiếu sâu sắc. Khi gặp khó khăn với đoàn thể hoặc với nhà cầm quyền thì người theo đạo Bụt có khuynh hướng “rút lui” để thiền quán và tìm sự an ủi. Thiền quán chỉ là thụ động và chấp nhận. Giáo sư Langley, Viện trưởng Viện Đại Học Massachusetts, trong bài viết Thích Nhất Hạnh, người của Châu Á (Asia’s Thích Nhất Hạnh) đã viết: Á Châu có những tuệ giác triết học, đạo đức, xã hội, kinh tế và ý thức hệ rất thực tiễn có thể giải đáp được cho những vấn đề lớn lao của xã hội mà con người đang phải đương đầu, những tuệ giác ấy được dựa trên nguyên tắc tương quan tương duyên. Tu thân cũng quan trọng như tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Ta không có hy vọng thay đổi và chuyển hóa những điều kiện đang đe dọa và làm cho xuống cấp con người cũng như môi trường của con người, nếu ta không biết tự tu, tu với nhau, và trong tinh thần tương tức. Giáo sư cũng nói rằng Á Châu từ nay không cần bận tâm về những cái mũ giả định mà Tây phương đã đội vào cho mình lâu nay
49
(như thụ động, tiêu cực...) nữa mà có thể với những
thành quả đạt được trong lĩnh vực giải phóng, đi vào
ngay trong lãnh thổ của những người đã dán danh hiệu
cho mình lâu nay, để giúp lãnh đạo cho việc chữa trị
tập thể. Những người như Mahatma Gandhi và Thích
Nhất Hạnh không hề có mặc cảm, họ đã chứng tỏ một
cách hùng hồn là tư tưởng đạo học Đông phương có
khả năng giải phóng và thay đổi xã hội. Và ta có thể
nói tới những phương thức giải phóng của Á Châu (the
Asiatic Modes of Liberation...)
Tập san được chia làm bốn phần, bắt đầu bằng bài giới thiệu của Giáo sư Viện trưởng. Phần đầu có vài bài pháp thoại mới, vài lá thư và một bài thơ của Thích Nhất Hạnh với chủ đề đạo Bụt đi vào cuộc đời - có liên hệ tới các vấn đề chiến tranh, xung đột, môi trường, kỹ nghệ thực phẩm, tiêu thụ và lịch sử phong trào đạo Bụt vào đời. Phần thứ hai gồm những bài nghiên cứu và áp dụng quan điểm đạo Bụt nhập thế của Thích Nhất Hạnh vào khoa học xã hội, khai thác sự trùng hợp giữa tư tưởng của Thầy với triết lý thực dụng (Pragmatism) của William James, với tư tưởng môi trường sâu (Deep Ecology) của Arne Naess, với triết lý xã hội, hình tượng xã hội và phân tích ý thức hệ. Phần thứ ba là bảy bài nghiên cứu áp dụng tư tưởng Thích Nhất Hạnh trong các trường hợp như giải quyết xung đột chính trị quốc tế, đem chánh niệm và thiền tập vào học đường, đem chánh niệm và ý thức tâm linh vào lãnh vực giữ trật tự an ninh trong các thành phố ở Hoa Kỳ, áp dụng chánh niệm và thiền quán để trị liệu trong trường hợp những người bị ám ảnh vì chiến tranh, đem ý niệm đạo Bụt vào đời vào lý thuyết kinh tế và guồng máy kinh tế, tư duy về đạo Bụt vào đời để tìm ra những phương thuật hữu hiệu đối phó được với cuộc khủng hoảng sinh môi và hâm nóng địa cầu, và sau hết là dùng tư tưởng đạo Bụt vào đời để đối trị với những thương đau, mất mát và bất hạnh trong gia đình. Phần thứ tư đăng một bài tiêu biểu cho lối tư duy Tây phương không hiểu thấu được cái tinh hoa của tinh thần đạo học Đông phương do một vị giáo sư tuy đang giảng dạy về tư tưởng Thích Nhất Hạnh nhưng không thực sự nắm được tư tưởng Thích Nhất Hạnh và tiếp theo là một bài của sư cô Chân Tùng Nghiêm soi sáng lại cho bài nói trên.
Sau đây xin mời các bạn đọc bài giới thiệu tập san Human Architecture của Giáo sư Langley
Thích Nhất Hạnh, con người của Châu Á
(Những phương thức Á Đông nhằm giải phóng con người và xã hội)
Tại Tây phương và cả ở những vùng khác trên thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Tây phương, danh từ Đông phương thường mang một ý nghĩa tiêu cực và thua kém. Tây phương đã nhìn và đã gọi lục địa Châu Á và người Châu Á với tiêu chuẩn của nền nhân
Tập san được chia làm bốn phần, bắt đầu bằng bài giới thiệu của Giáo sư Viện trưởng. Phần đầu có vài bài pháp thoại mới, vài lá thư và một bài thơ của Thích Nhất Hạnh với chủ đề đạo Bụt đi vào cuộc đời - có liên hệ tới các vấn đề chiến tranh, xung đột, môi trường, kỹ nghệ thực phẩm, tiêu thụ và lịch sử phong trào đạo Bụt vào đời. Phần thứ hai gồm những bài nghiên cứu và áp dụng quan điểm đạo Bụt nhập thế của Thích Nhất Hạnh vào khoa học xã hội, khai thác sự trùng hợp giữa tư tưởng của Thầy với triết lý thực dụng (Pragmatism) của William James, với tư tưởng môi trường sâu (Deep Ecology) của Arne Naess, với triết lý xã hội, hình tượng xã hội và phân tích ý thức hệ. Phần thứ ba là bảy bài nghiên cứu áp dụng tư tưởng Thích Nhất Hạnh trong các trường hợp như giải quyết xung đột chính trị quốc tế, đem chánh niệm và thiền tập vào học đường, đem chánh niệm và ý thức tâm linh vào lãnh vực giữ trật tự an ninh trong các thành phố ở Hoa Kỳ, áp dụng chánh niệm và thiền quán để trị liệu trong trường hợp những người bị ám ảnh vì chiến tranh, đem ý niệm đạo Bụt vào đời vào lý thuyết kinh tế và guồng máy kinh tế, tư duy về đạo Bụt vào đời để tìm ra những phương thuật hữu hiệu đối phó được với cuộc khủng hoảng sinh môi và hâm nóng địa cầu, và sau hết là dùng tư tưởng đạo Bụt vào đời để đối trị với những thương đau, mất mát và bất hạnh trong gia đình. Phần thứ tư đăng một bài tiêu biểu cho lối tư duy Tây phương không hiểu thấu được cái tinh hoa của tinh thần đạo học Đông phương do một vị giáo sư tuy đang giảng dạy về tư tưởng Thích Nhất Hạnh nhưng không thực sự nắm được tư tưởng Thích Nhất Hạnh và tiếp theo là một bài của sư cô Chân Tùng Nghiêm soi sáng lại cho bài nói trên.
Sau đây xin mời các bạn đọc bài giới thiệu tập san Human Architecture của Giáo sư Langley
Thích Nhất Hạnh, con người của Châu Á
(Những phương thức Á Đông nhằm giải phóng con người và xã hội)
Tại Tây phương và cả ở những vùng khác trên thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Tây phương, danh từ Đông phương thường mang một ý nghĩa tiêu cực và thua kém. Tây phương đã nhìn và đã gọi lục địa Châu Á và người Châu Á với tiêu chuẩn của nền nhân
bản Tây phương, cho văn hóa Đông phương là thấp kém
và con người Đông phương thiếu tự do.
Cố học giả Edward Said, tác giả cuốn Đông Phương Học, đã nói lên với rất nhiều can đảm rằng những ý niệm và từ ngữ mà Tây phương sử dụng để miêu tả Đông phương chứa đựng nhiều mâu thuẫn, úp mở và lúng túng. Ông đã dùng nhiều năm tháng của đời mình để vạch trần bộ mặt của cái gọi là Đông Phương Học, đã đưa ra những đề tài phản bác đường lối nghiên cứu ấy và đã tạo rất nhiều không gian và cơ hội để chúng ta có thể vạch lại hướng đi cho một nền Đông Phương Học đứng đắn.
Tuy cuốn sách đã đạt tới những thành tựu lớn lao, nhưng tác giả vẫn chưa thiết lập ra được những tiêu chuẩn để các dân tộc trên thế giới có thể tạo dựng một tương lai chung. Nhưng nói về những phương thức của Á Đông nhằm giải phóng con người và xã hội (The Asiatic Modes of Liberation), thì ta đã có thể bắt đầu bằng những quy tắc tìm thấy trong đạo Bụt nhập thế (Engaged Buddhism).
Tôi hiểu giải phóng ở đây có nghĩa là những hành động và những quá trình giải phóng trong lĩnh vực sự sống và hành xử cá nhân, ý nghĩa cuộc đời, tuệ giác và liên hệ giữa con người và con người. Á Châu có những nguồn tuệ giác thực tiễn trong các lĩnh vực triết học, đạo học, xã hội, kinh tế và ý thức hệ, có khả năng đối phó và giải quyết được những vấn đề lớn nhất của nhân loại hiện nay. Những tuệ giác ấy đã dựa trên nền tảng tương quan tương duyên giữa vạn vật. Những đạo lý tu tập để chuyển hóa tự thân cũng quan trọng ngang bằng những nguyên tắc nhằm giải quyết các vấn đề triết học và kinh tế. Công cuộc giải phóng xã hội không thể tách rời ra khỏi công cuộc giải phóng bản thân con người. Những nguyên lý như tương tức, tương dung, tương duyên, vô ngã, cái ta riêng biệt và cái ta cộng đồng... không phải là chỉ để giải thích về vũ trụ vạn hữu mà còn là những phép tu tập chuyển hóa và hoàn thiện bản thân. Chúng cũng là những hành động rất cần thiết cho sự hoàn thành bổn phận, tranh đấu cho nhân quyền và hoàn tất trách vụ của mình đối với xã hội.
“Những phương thức Á Châu nhằm giải phóng con người và xã hội” còn nói lên rằng ta không thể nào thay đổi và chuyển hóa tình trạng đang đe dọa và làm xuống cấp con người và trái đất nếu ta không biết cách tu tập để chuyển hóa bản thân, chuyển hóa cộng đồng và chuyển hóa mối liên hệ giữa con người và con người. Nó cũng nói lên rằng Đông phương chẳng cần phải chua chát, cay cú hay bận tâm khi nghe Tây phương dùng những danh từ và khái niệm có tính cách chê bai, bóp méo và coi thường Đông Phương, mà trái lại, với những thành quả đã đạt được, Đông phương có thể đi ngay vào trong mảnh đất Tây phương và giúp cho Tây phương chuyển
Cố học giả Edward Said, tác giả cuốn Đông Phương Học, đã nói lên với rất nhiều can đảm rằng những ý niệm và từ ngữ mà Tây phương sử dụng để miêu tả Đông phương chứa đựng nhiều mâu thuẫn, úp mở và lúng túng. Ông đã dùng nhiều năm tháng của đời mình để vạch trần bộ mặt của cái gọi là Đông Phương Học, đã đưa ra những đề tài phản bác đường lối nghiên cứu ấy và đã tạo rất nhiều không gian và cơ hội để chúng ta có thể vạch lại hướng đi cho một nền Đông Phương Học đứng đắn.
Tuy cuốn sách đã đạt tới những thành tựu lớn lao, nhưng tác giả vẫn chưa thiết lập ra được những tiêu chuẩn để các dân tộc trên thế giới có thể tạo dựng một tương lai chung. Nhưng nói về những phương thức của Á Đông nhằm giải phóng con người và xã hội (The Asiatic Modes of Liberation), thì ta đã có thể bắt đầu bằng những quy tắc tìm thấy trong đạo Bụt nhập thế (Engaged Buddhism).
Tôi hiểu giải phóng ở đây có nghĩa là những hành động và những quá trình giải phóng trong lĩnh vực sự sống và hành xử cá nhân, ý nghĩa cuộc đời, tuệ giác và liên hệ giữa con người và con người. Á Châu có những nguồn tuệ giác thực tiễn trong các lĩnh vực triết học, đạo học, xã hội, kinh tế và ý thức hệ, có khả năng đối phó và giải quyết được những vấn đề lớn nhất của nhân loại hiện nay. Những tuệ giác ấy đã dựa trên nền tảng tương quan tương duyên giữa vạn vật. Những đạo lý tu tập để chuyển hóa tự thân cũng quan trọng ngang bằng những nguyên tắc nhằm giải quyết các vấn đề triết học và kinh tế. Công cuộc giải phóng xã hội không thể tách rời ra khỏi công cuộc giải phóng bản thân con người. Những nguyên lý như tương tức, tương dung, tương duyên, vô ngã, cái ta riêng biệt và cái ta cộng đồng... không phải là chỉ để giải thích về vũ trụ vạn hữu mà còn là những phép tu tập chuyển hóa và hoàn thiện bản thân. Chúng cũng là những hành động rất cần thiết cho sự hoàn thành bổn phận, tranh đấu cho nhân quyền và hoàn tất trách vụ của mình đối với xã hội.
“Những phương thức Á Châu nhằm giải phóng con người và xã hội” còn nói lên rằng ta không thể nào thay đổi và chuyển hóa tình trạng đang đe dọa và làm xuống cấp con người và trái đất nếu ta không biết cách tu tập để chuyển hóa bản thân, chuyển hóa cộng đồng và chuyển hóa mối liên hệ giữa con người và con người. Nó cũng nói lên rằng Đông phương chẳng cần phải chua chát, cay cú hay bận tâm khi nghe Tây phương dùng những danh từ và khái niệm có tính cách chê bai, bóp méo và coi thường Đông Phương, mà trái lại, với những thành quả đã đạt được, Đông phương có thể đi ngay vào trong mảnh đất Tây phương và giúp cho Tây phương chuyển
50
hóa và giải phóng. Sự có mặt lịch sử của Mahatma
Gandhi là một ví dụ, không thể nào lầm lẫn được. Và
thầy Nhất Hạnh nữa, khi thầy dạy chúng ta: trong khi
đi tìm phương cách cứu vãn địa cầu, cả nạn nhân cũng
như kẻ gây ra tai nạn, không ai có cơ hội sống còn nếu
còn có ý muốn loại trừ nhau.
Những bài khảo cứu trong tập san này đều có chủ ý đi về hướng chấp nhận nhau, ôm lấy nhau, gạn lọc tâm ý mình và thực hiện con người toàn vẹn. Tập san này đã thành công trong việc vinh danh cuộc đời và sự nghiệp giảng dạy của thầy Nhất Hạnh, trong đó có chủ trương đem đạo Bụt đi vào cuộc đời.
_______________________
Tác giả Winston Langley là giáo sư chính Chính trị học tại trường Đại Học Massasuchetts. Ông cũng dạy về nhiều môn khác như Luật Lệ Quốc Tế và Nhân Quyền. Ông hiện là Quyền Viện Trưởng Viện Đại Học Massasuchetts. Trong các tác phẩm đã ra đời của ông, ta có thể kể: Women Rights in the US: A Documentary History và Human Rights: The Major Global Instruments. _______________________
(1) Orientalism, Edward Said, Vintage Book, 1978, ISBN 0-394-74067-X
Những bài khảo cứu trong tập san này đều có chủ ý đi về hướng chấp nhận nhau, ôm lấy nhau, gạn lọc tâm ý mình và thực hiện con người toàn vẹn. Tập san này đã thành công trong việc vinh danh cuộc đời và sự nghiệp giảng dạy của thầy Nhất Hạnh, trong đó có chủ trương đem đạo Bụt đi vào cuộc đời.
_______________________
Tác giả Winston Langley là giáo sư chính Chính trị học tại trường Đại Học Massasuchetts. Ông cũng dạy về nhiều môn khác như Luật Lệ Quốc Tế và Nhân Quyền. Ông hiện là Quyền Viện Trưởng Viện Đại Học Massasuchetts. Trong các tác phẩm đã ra đời của ông, ta có thể kể: Women Rights in the US: A Documentary History và Human Rights: The Major Global Instruments. _______________________
(1) Orientalism, Edward Said, Vintage Book, 1978, ISBN 0-394-74067-X
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)