Xin Giới Thiệu Một Số Người Có Viết Về Chánh Niệm Bằng Tiếng Anh

Bạn nào có quan tâm (xin họ làm advisor, ví dụ) xin liên hệ với họ trực tiếp.
1. Scott Mitchell ở Graduate Theological Union/Institute of Buddhist Studies, tác giả của sách Buddhism in America.
2. Natalie Quli ở Graduate Theological Union/Institute of Buddhist Studies
3. Robert Sharf ở UC Berkeley
4. Ann Gleig ở University of Central Florida, tác giả của American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
5. Tim Ryan tác giả của A Mindful Nation
6. Ronald Purser, gs có dạy về quản lý, tác giả của McMindfulness: How Mindfulness Became the New Capitalist Spirituality
7. Ellen Langer, gs Harvard, tác giả Mindfulness 25th Anniversary Edition
8. Richard Davidson, gs ở Wisconsin University, về chánh niệm thay đổi não bộ.
9: Gần chục gs ở Lesley University nơi có mở Cao Học về chánh niệm (Master of Mindfulness Studies).
Ngoài Mỹ thì:
10. Jeff Wilson, gs ở the University of Waterloo, Canada, tác giả của Mindful America

11. Một số gs mở Cao Học về Mindfulness-Based Cognitive Therapy ở Oxford University, Anh.
Read More »

Giới Thiệu Gần 100 Cuốn Sách Phật Giáo Tiếng Anh

Khá nhiều lần Phật Tử hỏi mình giới thiệu cho một cuốn sách Phật Giáo để đọc vì muốn tìm hiểu mà chưa hiểu nhiều.
Mình đã liệt kê khoảng 10-20 cuốn tiếng Anh với tóm tắt ưu và nhược điểm từng cuốn để họ chọn.
Nhưng rồi Phật Tử lại đòi 1 cuốn thôi.
Thực ra chọn một cuốn nó hơi khó. Lý do là Phật Giáo khác toán học. Toán học thì ai cũng bắt đầu từ phép cộng trong phạm vi 10, bảng cửu chương đi lên. Nên chọn 1 cuốn sách toán để bắt đầu khá dễ. Ngược lại, Phật Giáo lại như thuốc uống. Tuỳ căn bịnh mà cho thuốc. Không phải ai cũng uống thuốc hạ huyết áp là khoẻ đâu. Cũng không phải ai cũng uống vitamin A là tốt đâu. Dư cũng không ổn. Tuỳ căn cơ mà chọn một trong số sách ấy là phù hợp nhất.
Bài viết tiếng Anh dưới đây giới thiệu (không phải một mà đến) mấy chục, gần 100, cuốn sách tiếng Anh Phật Giáo rất hay cho người mới bắt đầu. Cuốn đầu tiên được giới thiệu là về Triết Học Phật Giáo.
Mình trước đây có học Triết Học Phật Giáo với gs Mario D'Amato. Có bằng tiến sĩ Phật Giáo ở the University of Chicago lừng danh, ông ấy dạy triết học Phật Giáo rất bài bản, thâm sâu và đầy cảm hứng. Nhưng khi giảng dạy, mình chả bao giờ giảng về triết học Phật Giáo cả. Lý do là mình thấy người Mỹ và người Việt Nam đương đại không có nhiều quan tâm triết học (giảng về tâm lý học có vẻ phù hợp hơn, thí dụ). Khi giới thiệu 10-20 cuốn sách về Phật Giáo, mình cố ý không hề giới thiệu cuốn sách Triết Học Phật Giáo nào. Trong khi bài này thì để sách Triết Học Phật Giáo lên đầu. Nó cho thấy nhận thức rất khác nhau về cùng một vấn đề.
Sau chủ đề Triết Học Phật Giáo, nhiều chủ đề khác như Thiền Phật Giáo, Zen kiểu Nhật, thiền Mật Tông, thiền Theravada, Tổng Quan Phật Giáo, Phật Giáo và Khoa Học...được tìm thấy trong các cuốn sách này.
Việt Nam có 2 tác giả là thiền sư Nhất Hạnh (2 cuốn) và Trịnh Xuân Thuận (nửa cuốn, viết chung với Matthiew Ricard) được đề cập.
Thân mời mọi người đọc.
Hãy share về facebook của Phật Tử nếu cảm thấy lợi lạc.
Đây là bài giới thiệu gần 100 cuốn sách Phật Giáo: https://tricycle.org/trikedaily/best-buddhist-books-for-beginners/?fbclid=IwAR07l5E4IkfEfKnxmQ_NfhI6hHJ-4h0Un5g74fLhzL-BbpZXumQyl977ZX0
Read More »

Phật Bác Quan Niệm Nghiệp Là Định Mệnh

Một số Phật Tử vẫn quan niệm về Karmic determinism (nghiệp như là định mệnh) dù rằng điều này không đúng.
Karmic determinism cho rằng tất cả mọi khổ đau, tai hoạ hay thành tựu của mình đều do cái nghiệp trong quá khứ (kiếp này và những kiếp xa xưa) gây ra. Điều này không đúng.
Bởi vì có nhiều nguyên nhân tác động đến mình mà những nguyên nhân đó không phải do nghiệp của mình (tạm gọi đó là nguyên nhân phi nghiệp). Mặt trời chiếu vào người mình là nguyên nhân phi nghiệp. Theo định nghĩa thì nghiệp là nguyên nhân/kết quả của thân, khẩu ý. Mặt trời không có nghiệp vì không có thân, khẩu, ý, mặc dù nó tác động mạnh mẽ đến loài người. Mùa hè nóng, mùa đông lạnh là những nguyên nhân phi nghiệp. Trọng lực là nguyên nhân phi nghiệp. Những nguyên nhân phi nghiệp rất nhiều.

Có hai quan niệm về định mệnh, và Phật đều bác bỏ cả. Thứ nhất cho rằng định mệnh mỗi cá nhân đã được an bài từ Đấng Sáng Thế. Thứ hai là định mệnh cá nhân do nghiệp.
Nhưng một cực đoan khác là phủ nhận tác động của nghiệp. Một số người theo thuyết đoạn diệt (nihilism) có quan niệm chết là hết nên làm gì có kiếp trước kiếp sau. Họ không tin vào nghiệp từ tiền kiếp.
Theo đạo Phật thì có nghiệp, tức là tạo tác/kết quả từ những hành động từ thân khẩu ý. Thực ra chữ nghiệp (karma) đã có trong Ấn Độ Giáo, Phật Giáo đưa khái niệm này vào thôi. Xin nói rõ thêm, trong thời kì đầu của Ấn Độ Giáo (Hinduism), thời văn hoá, kinh điển Vệ Đà (veda), thời kì này Phật chưa ra đời, thì nghiệp có nghĩa là kết quả của hành động do thân (có thể khẩu nữa). Sau này đến thời kì thứ hai và thứ ba thì nghiệp trong Ấn Độ Giáo cũng giống như trong Phật Giáo là kết quả của cả ba: thân, khẩu, và ý (không biết là Ấn Giáo có học từ Phật Giáo vấn đề này không, vì thời kì thứ 2 của Ấn Giáo trùng với thời gian Đức Phật ra đời). Nhưng mình nên biết là trong Đạo Phật, nguyên nhân do tâm thức tạo nghiệp rất lớn. Cụ thể nếu mình vô tình đạp đàn kiến trên đường thì nó sẽ khác nhiều với việc mình cố tình ngồi xuống giết kiến.
Một ví dụ khá đúng là nên hiểu rằng nghiệp tác động đến đời sống mình như di truyền vậy: hãy tránh hai cực đoan: 1, mọi điều xảy ra cho mình với tất cả đau khổ hay bệnh tật hay giàu sang...đều do di truyền; 2, chả có di truyền nào cả: tôi khác hoàn toàn so với cha mẹ tôi.
Thái độ đúng đắn là di truyền chiếm một phần ảnh hưởng đến đời mình nhưng những nguyên nhân phi di truyền, thí dụ giáo dục, y tế, gia đình, tôn giáo, bạn bè, chế độ chính trị, ý chí bản thân,... cũng ảnh hướng lớn lao không kém đến hạnh phúc hay đau khổ của mình.
Read More »

Phật Giáo Ở Giữa Hai Truyền Thống Duy Tâm và Duy Vật

Có lý thuyết duy tâm cho rằng có đấng sáng thế hay thượng đế tạo dựng trái đất mặt trời các vì sáng và con người, cũng như linh hồn của con người. Tín đồ tin vào sự tồn tại của thượng đế, rằng "ý thức" quyết định "vật chất." Sau khi chết linh hồn con người vẫn không mất đi. Có 2/3 dân số thế giới hiện nay tin vào duy tâm (theo Chúa có hơn 2 tỉ, Đạo Hồi gần 2 tỉ, Đạo Ấn Độ có hơn 1 tỉ). Ngược lại là duy vật. Lý thuyết này cho rằng không có đáng sáng thế nào hết. Con người đã sáng tạo ra thượng đế mà thôi. Chết đi thì linh hồn cũng hết luôn, như máy tính bị đập nát thì dữ liệu cũng mất luôn. "Vật chất quyết định ý thức." Hai lý thuyết này khá ngược nhau nên không dễ khoan nhượng. (Chiến tranh Việt Nam ngoài việc cạnh tranh của 2 siêu cường còn là sự cạnh tranh của 2 lý thuyết này khi miền bắc theo duy vật mà miền nam theo duy tâm.)
Còn một lý thuyết nữa nằm đâu đó giữa duy tâm và duy vật là Đạo Phật. Theo tôn giáo mình đang theo,
cũng là quan điểm của mình, thì không có đấng sáng thế. Tuy vậy, vũ trụ đã có từ lâu, từ vô thuỷ rồi. Đạo Phật không tin vào một linh hồn bất diệt nhưng tin rằng sau khi chết xác thân con người tàn hoại đi nhưng tâm thức vẫn còn đó và tâm thức ấy bị chuyển hoá vì năng lực của nghiệp. Phật Giáo có diễn tả một số dạng sống khác ngoài con người như lục đạo: trời, người, A Tu La, súc sinh, ngạ quỷ, và địa ngục. Những dạng sống này nằm trong luân hồi còn một số dạng sống giải thoát được luân hồi thành Phật, Bồ Tát, A La Hán. Trở lại khái niệm "thánh thần " nói cho dễ hiểu là những dạng sống cao siêu về năng lực hơn con người thì Phật Giáo có tin vào thánh thần. Tuy vậy, thánh thần trong Đạo Phật cũng trợ duyên thôi chứ không quyết định được cuộc đời mình. Nói nôm na là người giáo sư giúp mình học thôi chứ mình phải tự học mới lên lớp được. Sau khi tai qua nạn khỏi rồi thì vẫn nên tin vào thánh thần.
Read More »

Không Xem Đạo Phật Là Tôn Giáo Cũng Có Mặt Hay, Nhưng Xem Đạo Phật Là Tôn Giáo Cũng Có Nhiều Mặt Hay

            Một mặt, nhiều người trong nhiều tôn giáo khác nhau cũng không muốn nhận tôn giáo của mình là tôn giáo. Thực vậy, một số tín đồ Đạo Thiên Chúa bảo rằng cái mà gọi là Đạo Thiên Chúa thực ra không phải là tôn giáo; đây chỉ là con đường mà Đức Giê Su đã đi thôi chứ đâu tôn giáo gì. Chuyện này cũng đúng trong Phật Giáo là một số Phật Tử cũng bảo đây là con đường của Phật đi thôi chứ làm gì có tôn giáo. Mặt khác, Đạo Phật nên được xem là một tôn giáo vì như thế sẽ tốt cho sự phát triển của Phật Giáo ít nhất trong thế giới Tây Phương. Bản chất của Phật Giáo có thể xem là một tôn giáo, cũng có thể xem là một phần của tôn giáo, cũng có thể xem là không tôn giáo. Tuy vậy, nếu xem Phật Giáo là tôn giáo sẽ có lợi hơn nhiều sơ với việc không xem là tôn giáo khi Phật Giáo đi vào thế giới Âu Mỹ. Ở Hoa Kỳ thì vì Phật Giáo được xem là tôn giáo nên họ cho phép tu sĩ Phật Giáo được qua Mỹ hành đạo dù tiền bạc và bằng cấp không có. Đây là một ví dụ giản đơn để thấy được công nhận là tôn giáo có lợi thế cao đến nhường nào. Nếu không được xem là tôn giáo thì người xuất gia Phật Giáo, nhất là Phật Giáo Việt Nam, sẽ chỉ đến Mỹ với số lượng ít hơn hiện nay cả chục hay trăm lần. Thật vậy, không phải ai cũng đủ tiền bạc và năng lực, ít nhất ngoại ngữ và bảng điểm cao, để du học. Không có người xuất gia thì giữ đạo sẽ khó khăn cho tín đồ, huống hồ truyền đạo. Hơn nữa, ở nhiều nơi trên thế giới, nếu bảo Phật Giáo không phải là tôn giáo thì nếu chính quyền hà khắc nào đó dẹp chùa thì Phật Tử không thể kiện thưa là chính quyền đang đàn áp tôn giáo được. Đây là một thiệt thòi khi cho Phật Giáo không phải tôn giáo. Tất nhiên, khi cho rằng Phật Giáo không phải tôn giáo cũng có mặt hay.
            Còn về khoa học thì phần lớn người trong tôn giáo cho rằng tôn giáo của tôi đang theo rất là khoa học. Có những bài giảng, khá nhiều, về sự tương đồng giữa Kinh Thánh và Khoa Học trong tôn giáo bạn. Trong Phật Giáo thì nhiều Phật Tử vẫn xem Đạo Phật là môn khoa học. Chuyện này là bình thường trong tôn giáo thôi vì tôn giáo, cũng như chính trị, nó có tính chủ quan và tính khách quan kém. Tức có khuynh hướng cho tôn giáo mình hay, nhân bản, khoa học, phi tôn giáo...trong khi cho rằng "các tôn giáo còn lại" có thể không được như thế. Thực ra không ai nắm toàn chân lý, chẳng ai là luôn đúng cả nên rất thú vị khi trao đổi với nhau. Ví dụ là mình qua sự thực tập thiền của chính mình, biết rằng thiền rất tốt nhưng chứng mình cái nhận định trong Phật Giáo, và qua kinh nghiệm của mình, rằng thiền tốt, thì lại vô cùng gian nan...
Read More »

Lý Tính Chỉ Hiểu Một Phần Tôn Giáo, Không Thể Hiểu Hết Tôn Giáo

Phật Giáo thuộc về tôn giáo, mà tôn giáo lại thuộc lĩnh vực nhân văn (humanity); Phật Giáo, cũng như các tôn giáo khác, không thuộc môn khoa học, mặc dù nhân văn rất gần với khoa học xã hội (social science). Đây là cách sắp xếp, phân loại trong các Đại học hiện nay. Những Đại học tốt về khoa học công nghệ ở Mỹ rất ít, gần như không có, đào tạo về Phật Giáo: M.I.T., Caltech... Ngược lại, những đại học đa ngành tốt thì lại có đào tạo về Phật Học/Tôn Giáo: Harvard, Columbia, Chicago, UC Berkeley, Stanford, Cornell, U. Penn., UCLA...
Những tuyên bố trong tôn giáo không phải là kết luận của khoa học (xã hội). Trong khoa học xã hội thì để chứng minh điều gì là đúng thì người ta phải gom đủ bằng chứng thống kê cho thấy khả năng đúng lên đến từ 95-99%.
Nhưng nói vậy không có nghĩa là tôn giáo không đúng với khoa học; không, nó chỉ có nghĩa là tôn giáo và khoa học là hai lĩnh vực khác nhau; bắt khoa học chứng minh những nhận xét trong tôn giáo là việc làm rất khó, dù rất hấp dẫn, và khả năng chứng minh được cũng không cao. Có thể chỉ có một vài phần trăm những nhận định trong tôn giáo là có thể chứng minh đúng; cũng có thể có vài phần trăm nhận định trong tôn giáo được khoa học chứng minh là sai. Còn phần còn lại, phần lớn, thì rơi vào vùng xám mà khoa học không thể chứng minh cũng không đủ sức bác bỏ những nhận định từ tôn giáo.
Phần còn lại ấy, nếu ai muốn tin thì cứ tin; ai không muốn tin thì thôi. Cả hai bên đều cần tôn trọng lẫn nhau; không nên dè bĩu lẫn nhau.
Lấy ví dụ là Đấng Sáng Thế, hay còn gọi là Thượng Đế, có tồn tại hay không? Bên tin rằng có tồn tại thì cố sức chứng minh nhưng đến giờ vẫn chưa đủ cơ sở khoa học để kết luận là có tồn tại; ngược lại, bên tin không tồn tại cũng cố chứng minh đấng ấy không tồn tại nhưng cũng không đủ cơ cở khoa học để kết luận. Thượng Đế, như vậy, có thật hay không? Nếu bạn tin là có thì cứ có quyền tin; và nếu bạn không tin thì bạn cứ có quyền không tin mà cả hai đều không trái chống gì khoa học cả.
Có một nhà khoa học người Anh (mình quên tên nhà tâm lý học này) khoảng 15 năm trước có đưa ra dự đoán là chứng minh những tuyên bố trong Phật Giáo sẽ trở thành một trong vài lĩnh vực được nghiên cứu khá phổ biến và hứa hẹn trong tương lai. Mình cũng phần nào đồng ý với nhận định trên. Tuy vậy, mình cũng xin chia sẻ ra là từ 2017-2018 mình có làm một nghiên cứu khoa học về đề tài Ảnh Hưởng Của Thiền Chánh Niệm Lên Sinh Viên. Mình đã mời được một nhóm khoảng 10 người cùng nghiên cứu thí nghiệm dưới sự hướng dẫn của một giáo sư. Vất vả lắm với sự nỗ lực cả chục người nhưng có vẻ kết quả cũng không khả quan cho lắm.
Như đã nói, những nhận xét trong tôn giáo không dễ gì được chứng minh bởi phương pháp khoa học.
Vấn đề là một số người, có vẻ khá nhiều, khi họ không thấy khoa học chứng minh được một vấn đề, nhận xét nào đó trong tôn giáo thì họ có khuynh hướng cho rằng nhận xét đó là sai, là mê tín, là thiếu cơ sở khoa học trong khi thực tế thì nó có thể rơi vào vùng xám đó là khoa học tuy không chứng minh nhận xét đó là đúng nhưng cũng đâu có chứng minh được nhận xét đó là sai. Thành ra nên hiểu bao dung hơn, rằng nếu khoa học chưa chứng minh nổi đó là sai thì, tuy không tin bừa những nhận xét trong tôn giáo, cũng nên mở lòng để có những ý kiến đa chiều đi vào tâm hồn. Biết đâu khi khoa học phát triển hơn nữa sẽ chứng minh được cái nhận xét trong tôn giáo ấy (là đúng hay là sai).
Xin nói thêm là ngày xưa, Thuyết Tiến Bộ từng nghĩ rằng khi nhân loại tiến bộ đến mức nào đó, khi Lý Tính lên cao, thì tôn giáo sẽ chết. Nhưng rồi tôn giáo vẫn sống đấy thôi. Điều này làm nhiều người nghĩ lại, rằng tôn giáo có những nẻo sống mà cách tiếp cận Lý Tính không giải thích hết. Đây là nhận xét không nằm trong Tâm Lý Học Tôn Giáo (Psychology of Religion) mà nằm ở Xã Hội Học Tôn Giáo (Sociology of Religion).
Read More »

Nhiều Địa Chỉ Tải Sách Tiếng Anh Miễn Phí

Hiện tại thì các thư viện ở Mỹ và nhiều quốc gia đã đóng cửa. Việc tham khảo sách/tài liệu học tập trở nên khó khăn. Thường một lớp học thì gs bảo mua một vài cuốn sách làm tài liệu tham khảo chính. Sau đó, khi viết bài trong lớp thì phải tìm thêm sách ở thư viện, có khi hàng chục cuốn hay hơn. Đóng của thư viện thì phải mua sách qua mạng tốn tiền quá.
Biết được việc này, mình có chia sẻ kinh nghiệm tìm tài liệu online qua mạng như sách/tạp chí...miễn phí để các bạn đỡ phải mua. Tuy không thể có tất cả tài liệu mong đợi nhưng mình cũng chỉ ra hàng chục địa chỉ có thể tải sách/đọc sách hay xem phim miễn phí.
Đầu bài là giới thiệu về kim tự tháp phân loại thông tin/kiến thức kiểu Mỹ để các bạn có thể biết dạng thông tin nào mình cần tìm để khỏi lẫn lộn giữa thông tin hàn lâm và báo lá cải vớ vẩn.
Chúc các bạn có thể tìm nhiều tài liệu yêu thích trên mạng miễn phí.
Trân trọng.
Đây là link xem bài: https://www.youtube.com/watch?v=b5rhQ7oevvM&feature=youtu.be&fbclid=IwAR3aTOApWoWA5h9PiKD1cpVEVD_agGmzpahwkWflAkr24Og_nUT4Vhf1BpY
Read More »

Dự Đoán Số Lượng Tín Đồ Các Tôn Giáo Đến 2050

Bài dưới đây dự đoán về dân số các tôn giáo trên thế giới từ 2010 đến 2050. Theo số liệu của bài này thì:
Đạo Phật tính từ năm 2010 có 0.49 tỉ tín đồ (gần nửa tỉ). Đến 2050 vẫn dậm chân tại chỗ là 0.49 tỉ. Nhưng tính về phần trăm dân số thì Đạo Phật lại giảm từ 7.1% xuống còn 5.2 (lý do là số lượng tín đồ không tăng trong khi dân số nhân loại tăng).
Ấn Độ Giáo tăng nhẹ từ 1.03 tỉ đến 1.38 tỉ tín đồ. Nhưng lại giảm rất nhẹ tính theo phần trăm dân số, từ 15% xuống 14.9%.
Đạo Thiên Chúa tăng nhanh, from hero to hero: từ 2.17 tỉ đến 2.92 tỉ tín đồ. Nhưng phần trăm tín đồ thì lại không tăng, giữ nguyên 31.4% dân số.
Đạo Hồi tăng nhanh nhất, từ 1.6 tỉ đến 2.76 tỉ tín đồ. Phần trăm tín đồ với dân số tg cũng tăng, từ 23.2% đến 29.7%. Đến 2050 thì số lượng tín đồ của Đạo Thiên Chúa và Đạo Hồi gần như tương đương.
Chi tiết xin xem bài dưới.
Tuy vậy, cũng như các số liệu thống kê và các dự đoán cho tương lai, mức độ tin cậy về nội dung bài này cũng không phải là cao lắm. Có hai điều: 1, cách thống kê trong tôn giáo khó khăn và có thể không thể chính xác. 2, tương lai là điều có thể diễn ra bất định.
Nhưng dù sao đây cũng là số liệu thú vị cho dự đoán bức tranh tôn giáo trong vài chục năm tới.


https://www.pewforum.org/2015/04/02/religious-projections-2010-2050/ 
Read More »

PHÁP SƯ THÍCH NHƯ ĐIỂN
 và Phật Giáo Việt Nam Tại Đức



Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí „BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49
[Lời tòa soạn: Hòa Thương Thích Như Điển đã làm lễ khánh thọ lần thứ 70 trong năm qua. Thầy đã mang truyền thống dòng Thiền Lâm Tế Việt Nam sang nước Đức và là người truyền thừa có ảnh hưởng sâu rộng của Phật Giáo tại đây. Đồng thời, Thầy đã đóng góp triệt để cho sự hội nhập của người Việt trong nước Đức – và do đó cũng là một đoạn đường quan trọng cho tính đa dạng của Phật Giáo trong đất nước này. Trong bài tiểu luận này, ông Olaf Beuchling đã vinh danh cuộc sống và những Phật sự của vị Pháp Sư đồng thời giới thiệu tổng quan dòng Thiền Lâm Tế Việt Nam.] 

Người ta đứng chen chúc trong khuôn viên an bình của ngôi Chùa Viên Giác tại Hannover: Có hàng ngàn người khách hiện diện trong những ngày hè của tháng sáu năm 2019. Họ đến hỷ chúc 70 năm khánh thọ của Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác – Thầy Thích Như Điển, vị Tỳ Kheo người Đức gốc Việt.
Những nam nữ khách thập phương đa phần đang thưởng thức các món ăn chay đặc sản dưới bóng mát của chiếc lều lễ hội trắng tinh hoặc đang vân tập trong chánh điện để tham dự những khóa lễ Phật – họ là những người Việt Nam. Trong số những người này, có nhiều người xuất thân từ những gia đình đã rời quê hương trong thập niên 1970 để tìm một cuộc sống an bình và tự do trong một quốc gia ở phương Tây. Hầu hết Chư Tăng Ni trong số người tham dự đắp y theo truyền thống Lâm Tế Việt Nam. Có vài Sư Cô theo truyền thống Tây Tạng hoặc những vị Sư Nam Tông. Trong số này có nhiều vị rất nổi tiếng như Sư Seelawansa đến từ Wien – Áo Quốc; Sư Seevavi đến từ Canada hoặc Sư Olande Ananda đến từ Tích Lan.
Thầy Thích Như Điển với 55 năm Tăng-lạp và là người truyền thừa dòng Thiền Lâm Tế Việt Nam đến Đức; động viên và sáng lập viên Hội Tăng Già Đức Quốc đồng thời là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Tăng Già Thế Giới. Thầy đã biên soạn và dịch thuật hơn 70 quyển sách – công trình này được Thầy thực hiện trong những mùa an cư của Tăng chúng Chùa Viên Giác tịnh tu  hàng năm để có nhiều thì giờ cho việc tu tập và thúc liễm thân tâm.
Ngoài ra, Thầy còn cấp hàng trăm học bổng cho Tăng Ni sinh khắp nơi. Thầy nói và hiểu được sáu (6) ngôn ngữ, gồm có tiếng Việt, Đức, Hoa, Anh, Nhật và Pháp ngữ . Thầy là giảng sư Phật Học không chỉ ở trong quê hương Đức Quốc của mình, mà còn trong nhiều quốc gia Âu Châu như Đan Mạch, Na Uy hoặc Pháp và ngoài châu Âu như Hoa Kỳ, Úc hoặc Ấn Độ. Măt khác, Thầy tỏ ra rất giản dị, nhẹ nhàng với giọng nói trầm hùng trong bộ y áo bình dị đi vòng trong khuôn viên Chùa để thăm hỏi những nam nữ Phật Tử và khách thăm viếng.

Chùa Viên Giác tại Hannover khởi đầu từ năm 1978 
là một Niệm Phật Đường nhỏ và
 theo dòng thời gian đã phát triển thành một
 trong nhiều ngôi Chùa lớn nhất Âu Châu

Cậu Bé Con Nhà Nông Chất Phác.
Thầy Thích Như Điển sanh ngày 28.06.1949, tục danh là Lê Cường và là cậu con trai út trong gia đình. Thầy sống và lớn lên trong một ngôi làng ở miền Trung nước Việt thuộc tỉnh Quảng Nam.  Cha Mẹ của Thầy là những người Phật Tử làm nông chất phác.
Phật Giáo Việt Nam không riêng lẽ.  Sự truyền thừa Phật Giáo ở Việt Nam rất đa dạng, người ta thường nói đến Đại Thừa, có một số ít ngôi chùa Nam Tông chủ yếu tọa lạc gần biên giới Cam Bốt, cũng như có trường phái kết hợp giáo lý Bắc và Nam Truyền, đó là Đạo Phật Khất Sĩ.
Cảnh quan tôn giáo của đất nước này có tầm mức hòa hợp cao, nếu không phải bắt nguồn từ những truyền thống đã sẵn có – nghĩa là các truyền thống và giáo lý được hòa lẫn pha trộn với nhau.
Đa phần những nam nữ Phật Tử trong và ngoài nước Việt Nam tu tập theo dòng Thiền Lâm Tế và một số ít theo nhiều trường phái truyền thừa khác nhau. Thật ra, những người đứng bên ngoài chưa biết rằng, Lâm Tế là sự truyền thừa vào Việt Nam từ dòng Lâm Tế (Linji) Trung Quốc và được biết đến ở Nhật Bản là Rinzai-Zen. Tuy nhiên, trong lúc trường phái Rinzai-Zen Nhật Bản được truyền vào Nhật Bản từ dòng Linji Trung Quốc từ năm 1191 thì dòng Thiền Lâm Tế Việt Nam ngày nay đã được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 17. Do đó, dòng Lâm Tế chứa nhiều yếu tố của truyền thống Chan tại Trung Quốc từ thế kỷ thứ 12, hầu hết là tư tưởng Tịnh Độ Tông, nhưng cũng có sự tu tập theo Mật Tông và tín ngưỡng dân gian.
Nhận ra sự căng thẳng giữa đại đa số người Phật Tử và thành phần lãnh đạo Cơ-Đốc tại Nam Việt thời đó nên cậu thanh niên trẻ Lê Cường đã quyết định xuất gia. Như vậy, Thầy đã nối gót người anh là Thầy Thích Bảo Lạc đã là tăng sĩ Phật Giáo nhiều năm trước đó và hiện nay là vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Úc và Tân Tây Lan.
Ngày 15 tháng tư năm 1964, chàng trai Lê Cường được Cha Mẹ cho phép xuất gia. Trong Chùa Viên Giác (tại Hội An) (nghĩa là sự Giác Ngộ Viên Mãn), sau này là tên ngôi Chùa do Thầy sáng lập tại Đức, Thầy đã bắt đầu cuộc đời làm điệu. Vì Thầy Bổn Sư bị bệnh, Thầy được Sư Phụ gửi đến Chùa Phước Lâm cũng tọa lạc ở thành phố hải cảng an hòa tại Hội An để tu học. Mặc dù, Thầy là một học sinh tiểu học kém và song song với cuộc sống già lam, chú điệu ở Hội An này cũng phải theo học trường Trung Học Phật Giáo tại đây và sau này là một trong những học sinh Tú Tài ưu tú nhất tại Saigon.Việc học hành của Thầy càng phát triển tốt theo thời gian làm Thầy Thích Như Điển nhớ đến cuộc sống và việc chuyên tu hàng ngày ở ngôi già lam với Kinh kệ, thiền định, nơi vắng bóng những cám dỗ của thế gian và điều này đã giúp cho cậu thanh niên chuyên chú tập trung vào việc tu tâm nhiều hơn.

Người ta nói đến Đại Thừa (Mahajana), Nguyên Thủy (Therevada) 
hay Kim Cang Thừa (Vajrayana), Thầy giải thích rằng
 „nhưng đối với tôi Phật Giáo chỉ có một thừa 
đó là PHẬT THỪA (Buddhayana)

Sau học trình Tú Tài, vị Tăng trẻ đã nhận được một học bổng đi Nhật. Kể từ năm 1972, trước tiên Thầy học tiếng Nhật tại Tokyo, sau đó học Sư Phạm và Phật Học. Trong thời gian này, Thầy sống chung với những vị Tăng Sĩ khác trong một Tự Viện và nghiên cứu sâu về văn hóa Nhật Bản. Bất kể sự thử thách của tiếng Nhật, Thầy đã kết thúc học trình Sư Phạm năm 1977 và là sinh viên tốt nghiệp ưu tú thứ nhì. Sau này Thầy phát biểu rằng: Tokyo thật sự không phải là quê hương của tôi, nhưng thời gian cư ngụ và sinh hoạt ở đây đã mang đến cho tôi nhiều kinh nghiệm thật quý giá.
Thời gian đầy lo sợ dưới lá cờ đỏ.
Tình hình trong quê hương của Thầy đã có nhiều đổi thay. Thật ra cuộc chiến đã chấm dứt, tuy nhiên sau khi Hoa Kỳ rút quân thì những toán quân Bắc Việt đã tấn công vào tháng tư năm 1975 và vài ngày sau đó họ đã chiếm trọn miền Nam Việt Nam. Người Mỹ đã di tản hàng chục ngàn người miền Nam trước đây làm việc cho chính quyền cũ. Giai đoạn lo sợ ngút ngàn đã bắt đầu cho nhiều người phải sống dưới lá cờ đỏ của những người thống trị bằng sự đàn áp chính trị và Tôn Giáo và một nền kinh tế đói nghèo. Nhiều gia đình thuộc giới trung lưu đã bị tước quyền sở hữu; nhiều thành phần trí thức và Tăng Sĩ bị đưa đi cải tạo hoặc bị cưỡng bách lao động ở những nơi gọi là vùng kinh tế mới. Bởi tình hình như vậy, nên trước tiên Thầy Thích Như Điển tự quyết định là chưa quay lại quê hương. Thay vào đó, Thầy nhận lời mời của một người bạn lúc thiếu thời đang sống tại thành phố Kiel thuộc Bắc Đức. Trong thời gian cư trú tại đây, Thầy được nhiều người Việt lưu vong thuyết phục rằng, nên ở lại Đức và xây dựng một cộng đồng Phật Giáo cho người Việt tại đây. Vị Tăng Sĩ hồi tưởng lại: „Tôi hy vọng qua chuyến đi này tôi có thể vượt qua cơn sốc trong nội tâm về sự mất quê hương“. Vì thế cho nên, Thầy bắt đầu nỗ lực học tiếng Đức, đó là ngôn ngữ thứ sáu (6) của Thầy.
Năm 1978, Thầy ghi danh Đại Học Hannover. Đơn xin tỵ nạn của Thầy cũng đã được chấp thuận. Kể từ giây phút này, lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Đức đã được đặt nền móng.
Ngôi Chùa Viên Giác tại Hannover khởi đầu năm 1978 là một Niệm Phật Đường và theo dòng thời gian đã phát triển trở thành một trong những Tự Viện lớn nhất theo truyền thống Phật Giáo tại Âu Châu. Ngày nay, ngôi Chùa này được xem là trung tâm năng lượng của Phật Giáo Việt Nam tại Đức và cũng là nơi đã tổ chức nhiều hội nghị Phật Giáo quốc tế. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã thăm viếng nơi này hai lần. Hiện nay cũng có nhiều ngôi Chùa và Niệm Phật Đường ở Hamburg, Berlin, München, Aachen, Freiburg, Nürnberg, Mönchengladbach và Ravensburg. Chùa Viên Đức được xây dựng tại Ravensburg là nơi Thầy Thích Như Điển sinh sống, sau khi Thầy rút lui khỏi mọi nhiệm sở của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Đức. Ở các tiểu bang phía Đông cũng có những sinh hoạt của Phật Giáo Việt Nam như tại Schmiedeberg bang Sachsen với Thầy Thích Hạnh Tấn - một trong những đệ tử xuất gia của Thầy Thích Như Điển và đã từng là Trú Trì Chùa Viên Giác Hannover – đã xây dựng Tu Viện Vô Lượng Thọ (Amitayus) tại đó.
Cúng Dường và Truyền Thống
Ở phương Tây, vị Tăng Sĩ nổi tiếng nhất đại diện cho Phật Giáo Việt Nam là Thầy Thích Nhất Hạnh, Pháp Sư và nhà viết sách, đã xây dựng Tăng Đoàn Tiếp Hiện (Intersein) và nhiều trung tâm ở phía Nam nước Pháp và ở Waldbröl được quốc tế công nhận. Thầy Thích Nhất Hạnh đời thứ 42 dòng Lâm Tế (Liễu Quán). Đối với người Việt tại Đức và các quốc gia lân bang thì Thầy Thích Như Điển có một vị trí không nhỏ, vì Thầy thuộc đời thứ 41 dòng Lâm tế (Chúc Thánh). Sự khác biệt đối với „Tăng Đoàn Tiếp Hiện“ (Order of Interbeing) của Thầy Nhất Hạnh là dòng Lâm Tế truyền thống của Thầy Thích Như Điển duy trì truyền thống hơn và chủ trương Phật Giáo Tịnh Độ. Do đó phần lớn những hành giả trước sau vẫn có xuất xứ từ Việt Nam. Người ta ít biết đến Phật Tử Đức, còn Tăng Già Đức thì hoàn toàn không. Tuy nhiên, nam nữ Phật Tử Việt Nam tại Đức luôn giữ mối liên hệ tốt đối với các nhóm Phật Giáo khác tại địa phương và thường xuyên tham dự những sinh hoạt vượt khỏi phạm vi nhóm như các Đại Lễ Phật Đản tại địa phương.
Có nhiều điểm khác biệt giữa Phật Giáo Việt Nam tại Đức và những cộng đồng Phật Giáo khác trên nhiều khía cạnh như:
Cúng Dường (DANA).Cộng đồng Phật Giáo Việt Nam tồn tại từ sự Cúng Dường. Sự ủng hộ thường là tài chánh và tự nguyện làm công quả, nghĩa là cộng tác phi lợi nhuận. Nhiều gia đình Việt Nam có tiền của và sẳn sàng cúng dường hậu hỷ như lúc còn ở quê nhà. Ngoài ra, còn có một mạng quốc tế của người Việt hải ngoại. Bằng cách này, việc ủng hộ cũng có thể từ các công ty công nghiệp giàu có khác như ở Hoa Kỳ hoặc Úc Châu. Vì thế cho nên, từng bước xây dựng ngôi Chùa tại Hannover từ một Niệm Phật Đường bình dị cho đến một tòa nhà đầy ấn tượng ngày hôm nay chỉ có thể bằng khả năng hội nhập của những gia đình Việt Nam. Ngay từ ban đầu, họ đặt nặng vấn đề đào tạo như một chiến lược đáng kể cho việc hội nhập và họ đã thành công.
Nhiều người Việt tỵ nạn trước đây đã tìm ra cho họ một con đường để có những vị trí chuyên nghiệp và được trả lương xứng đáng. Sự độc lập tài chánh làm cho cuộc sống gia đình cũng như cộng đồng nở hoa – bằng sự cúng dường và nỗ lực đóng góp. Vì thế cho nên, các nhóm nhỏ Phật Giáo Đức với bản chất hội đoàn của họ không thể sánh bằng.
Truyền Thống.Một đặc điểm khác của Phật Giáo hải ngoại dưới sự hướng dẫn tinh thần của Thầy Thích Như Điển là việc bảo tồn và duy trì truyền thống. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính trong các buổi lễ và pháp thoại. Điều này không hề mang ý nghĩa rằng, cộng đồng này không nói được tiếng Đức. Nhiều thành viên thậm chí nói lưu loát nhiều ngôn ngữ và đã từng học ở Đức và nước ngoài. Trình độ học vấn cao là điều quan trọng đối với Thầy. Tuy nhiên, người ta nên hiểu đây là sự bảo tồn truyền thống và ưu tiên cho việc truyền đạt trung thực trước sự pha trộn của dòng thời gian.

Cộng đồng Việt có nhiều thành viên mới 
hầu hết là những mầm non, con cái 
của cácgia đình và qua sự nhập cư thêm

Mầm Non.Một khía cạnh khác biệt nữa có thể nhận biết từ sự phát triển dân cư. Cộng đồng Việt có thêm nhiều thành viên mới trước tiên là những mầm non, con cái của các gia đình và qua sự nhập cư thêm, nhưng không phải qua sự đổi đạo. Ở nhiều nhóm Phật Giáo khác của Đức có tình trạng dậm chân số lượng thành viên và tuổi trung bình của họ cao cũng vì thiếu mầm non, con cái. Những nam nữ Phật Tử Đức đến với Chánh Pháp thường là những người trẻ trưởng thành và giáo lý Phật Đà thích hợp cho thành phần trí thức. Họ xuất thân từ nền văn hóa phương Tây đặc thù cá nhân nên Phật Giáo cần lý giải phù hợp với bối cảnh này. Trong những gia đình Việt Nam theo đạo Phật thì ngược lại, Phật Giáo đã thấm nhập vào nội tâm của trẻ từ lúc còn bé ví dụ phản ảnh qua ca dao, tục ngữ và chuyện kể; cũng như sự hành trì hàng ngày của gia đình qua nhiều thế hệ.
Tăng Già.Và cuối cùng, vị trí của Tăng Già được sự kính trọng rất cao từ những nam nữ Phật Tử. Trong khi tín đồ Phật Giáo phương Tây từ các cộng đồng cũng như việc truyền đạt giáo lý dễ giải thì có thể thấy được trong Phật Giáo Việt Nam ngay trong những điều kiện di dân vẫn có việc sẳn sàng gia nhập hàng ngũ Tăng Già và những vị này được xã hội kính trọng – sự tồn tại của Tăng Già được xem là đảm bảo cho sự trường tồn của Chánh Pháp.
Tuy nhiên, dù có sự công nhận mọi đặc thù của nhiều nhóm Phật Giáo khác nhau và sự truyền thừa, nhưng Hòa Thượng Thích Như Điển cũng luôn nhấn mạnh đến tính liên kết. “Người ta nói đến Đại Thừa, Nguyên Thủy hoặc Kim Cang Thừa” nhưng Thầy giải thích rằng “Tuy nhiên, đối với tôi Phật Giáo chỉ có một Thừa, đó là PHẬT Thừa”
Bén Rễ Ở Phương Tây.
Trong cuộc đời của mình, Thầy Thích Như Điển đã nhận nhiều sự vinh danh. Mười năm sau khi thành lập Niệm Phật Đường Viên Giác tại Hannover, Thầy được Hội Đồng Tăng Già Hải Ngoại tại Marseille ở phía Nam Pháp Quốc tấn phong làm Thượng Tọa. Năm 2008, tại Chùa Viên Giác Hannover, Thầy được tấn phong làm Hòa Thượng. Hai phẩm vị này là sự vinh danh liên tục không ngừng nghỉ của Thầy trong Giáo Hội, những nỗ lực đóng góp của Thầy cho việc hoằng pháp cũng như kiến thức Phật Học về lý thuyết lẫn việc hành trì. Ngoài ra, Thầy còn được nhiều công nhận quốc tế như việc vinh danh của Thủ Tướng Tích Lan và Tăng Đoàn Ramanna Nikaya Tích Lan đồng thời vinh danh của ba (3) Tăng Già Chính Thống tại Tích Lan năm 2011; được tiến cử làm Đệ Nhị Chủ Tịch Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Âu Châu  năm 2015; được tiến cử làm Phó Chủ Tịch Hội Đồng Tăng Già Thế Giới (WBSC) tại Penang, Malaysia năm 2018.
Dòng Lâm Tế ngày nay được nhiều cộng đồng Phật Giáo và có số lượng thành viên nhiều nhất tại Đức tu học và hành trì. Nhờ những nỗ lực của Thầy Thích Như Điển mà Phật Giáo Việt Nam đã có thể bén rễ ở trời Tây  và đồng thời Phật Giáo đã có thể là quê hương xã hội và tâm linh cho nhiều gia đình Việt Nam.

Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp chuyển ngữ ngày thứ tư 25.03.2020.
(Điều Hành Trưởng Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo VN tại Đức – Chùa Viên Giác, Hannover / Thành viên Ban Chấp Hành Hội Phật Giáo Đức (Deutsche Buddhistische Union 2004-2012)
Read More »

Xin giới thiệu một số người có viết về chánh niệm bằng tiếng Anh


Xin giới thiệu một số người có viết về chánh niệm bằng tiếng Anh. Bạn nào có quan tâm (xin họ làm advisor, ví dụ) xin liên hệ với họ trực tiếp.

1. Scott Mitchell ở Graduate Theological Union/Institute of Buddhist Studies, tác giả của sách Buddhism in America.
2. Natalie Quli ở Graduate Theological Union/Institute of Buddhist Studies
3. Robert Sharf ở UC Berkeley
4. Ann Gleig ở University of Central Florida, tác giả của American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
5. Tim Ryan tác giả của A Mindful Nation
6. Ronald Purser, gs có dạy về quản lý, tác giả của McMindfulness: How Mindfulness Became the New Capitalist Spirituality
7. Ellen Langer, gs Harvard, tác giả Mindfulness 25th Anniversary Edition
8. Richard Davidson, gs ở Wisconsin University, về chánh niệm thay đổi não bộ.
9: Gần chục gs ở Lesley University nơi có mở Cao Học về chánh niệm (Master of Mindfulness Studies).
Ngoài Mỹ thì:
10. Jeff Wilson, gs ở the University of Waterloo, Canada, tác giả của Mindful America

11. Một số gs mở Cao Học về Mindfulness-Based Cognitive Therapy ở Oxford University, Anh.
Read More »

Cloning, Sinh Sản Vô Tính, Tạo Được Nhiều Vị Phật, Chúa, Dalai Lama?

Cloning là kĩ thuật lấy chỉ cần một tế bào của người nào đó và với sự trợ giúp của tiến bộ y khoa hiện tại đã có thể cho ra một đứa trẻ giống hệt người cho tế bào. Sinh sản vô tính này bây giờ loài người đã làm được không khó gì lắm.
Một câu hỏi là nếu mình lấy tế bào của Phật Thích Ca (hay của Chúa Giê Su) hay vị cao tăng nào đó, Đức Dalai Lama chẳng hạn, mình có thể nào tạo ra cá nhân giỏi như vị đó?
Câu trả lời về mặt sinh học là có. Mình có thể tạo ra cá nhân giống hệt với cá nhân đó, tất nhiên là trẻ hơn, về mặt sinh học. Nhưng về mặt hiểu biết, từ bi, tuệ giác...thì không giống đâu. Có thể khác rất xa. Lý do là vì cá nhân còn chịu ảnh hưởng của môi trường sống và nỗ lực tự thân của cá nhân đó nữa chứ không chỉ chịu ảnh hưởng của di truyền.
Nếu lấy 100 tế bào của Phật ra làm được 100 cá nhân giống hệt Phật thì nguyên tắc là làm được. Nhưng 100 cá nhân ấy có thành Phật không lại là chuyện khác. Nhiều phần là không.
Lí do. Để có thể giữ được phong độ của một cầu thủ bóng đá hàng đầu như Messi hay Ronaldo, cá nhân đó ngoài tố chất bẩm sinh và môi trường rèn luyện tốt với huấn luyện viên giỏi và chế độ dinh dưỡng cùng nỗ lực bản thân...Không phải cứ đoạt quả bóng vàng rồi thì tha hồ ăn ngủ mà vẫn đá bóng giỏi, vẫn giữ được phong độ. Không có đâu.
Phật cũng giống vậy thôi về vấn đề này.
Sau khi đã thành Phật, ngài vẫn phải hành thiền thường xuyên hằng ngày.
Tại sao đã thành Phật mà vẫn phải tu tinh chuyên, phải hành thiền thường xuyên?
Có ít nhất 3 ý trả lời và bài này nằm ở ý thứ 3.
Thứ nhất là Phật hay ngồi thiền để làm biểu tượng cho đời sau nỗ lực tu tập.
Thứ hai là để tăng cường sức khoẻ. Trong kinh Tương Ưng Bộ trong Nikayas có đề cập đến có lần Phật bịnh quá, ngài đã ngồi thiền để khoẻ lại. Nhưng nếu ngồi thiền để khoẻ thì khi ngài hết bịnh ngài đâu cần ngồi thiền nữa? Ấy vậy mà kinh điển đề cập rất nhiều là Phật thường thiền ngồi và thiền đi thường xuyên.
Nguyên nhân thứ ba là để duy trì phong độ và uy lực của Phật. Ngài phải ngồi thiền đi thiền thường xuyên để duy trì những phẩm chất của một vị Phật, như Messi phải tiếp tục tập đá bóng mới duy trì đẳng cấp được. Thực vậy, Phật đã an cư kiết hạ mỗi năm 3 tháng. Điều này không chỉ có lợi cho đệ tử mà còn có lợi cho ngài. Trong Tương Ưng Bộ cũng có kinh bảo ngài nhập thất vài tuần không muốn gặp ai trừ thị giả đem thực phẩm tới. Nếu chỉ muốn làm biểu tượng hay để tăng cường sức khoẻ thì ngài đã không cần an cư hay nhập thất như vậy.
Trở lại vấn đề cloning. Nếu lấy tế bào của Phật ra để tạo ra 100 cá nhân giống ngài thì nếu những cá nhân đó không nỗ lực tu tập và điều kiện môi trường không đủ tốt thì cá nhân đó sẽ chẳng thành Phật được. Nhưng dù những cá nhân đó có nỗ lực tu tập trong môi trường rất tốt thì cũng không dễ thành Phật được hay với xác suất rất thấp. Để có thể thành Đức Dalai Lama hay thiền sư Nhất Hạnh là hi hữu trên đời; không dễ gì sinh sản vô tính có thể tạo ra những con người kiệt xuất như vậy.
Read More »

Sự Trưởng Thành Đạo Đức

Sự trưởng thành đạo đức, ethical maturity, cũng có nghĩa là nhạy cảm đạo đức, ethical sensitivity. Khi tu tập, hành giả trở nên nhạy cảm đạo đức. Hành giả khi chuẩn bị làm điều gì có thể cảm được phần nào hậu quả đem lại cho mình và cho người. Bậc thánh có sự nhạy cảm đạo đức rất cao và vi tế còn hạng phàm thì gần như trơ lỳ: bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Văn minh bất bạo động cũng từ đỉnh cao của sự nhạy cảm/trưởng thành đạo đức từ các vĩ nhân tôn giáo/tâm linh mà lưu xuất.
Người thường với nhau vẫn có sự khác nhau về nhạy cảm đạo đức. Có người đua xe đánh võng. Họ không nghĩ về hậu quả, tức cá nhân này không nhạy cảm đạo đức. Tương tự với việc hút chích. Đây là những phần thô về đạo đức. Lên mức cao hơn là ganh tỵ. Nếu người có nhạy cảm đạo đức, họ sẽ hoá giải tâm hành này. Nếu kém hơn thì có thể bộc phát ra lời nói, còn thô hơn thì biểu hiện ra hành động.
Trong sinh hoạt hằng ngày, nhìn những người xung quanh có thể thấy họ nhạy cảm đạo đức khác nhau. Có người mỗi khi rửa nồi cơm điện thì đổ nước cả trong và ngoài nồi mà rửa rồi úp cho khô: rửa thế mới sạch. Nhưng thỉnh thoảng cắm vào nấu thì nó giật nhưng họ vẫn muốn rửa kiểu đó. Có người thì quấn dây điện quanh cổ khi hát karaoke. Có người thì bỏ phẩm màu hay nấu cho cháy đen đường để tạo màu cho thức ăn. Có người lại rửa chén bằng nước rửa chén mà không rửa kĩ, chỉ tráng sơ. Có người thì dùng chung bàn chải đánh răng. Có người thì thường xuyên bôi bác chồng cho cả làng mà im như hến trước những ân tình và nỗ lực mà chồng làm cho mình. Có người lại bạo lực và bủn xỉn với người thân...
Trong đại gia đình, những người nhỏ, em út, thường có sự trưởng thành đạo đức thấp hơn những người lớn hơn. Lý do là người nhỏ thường nhận về tình thương và sự hi sinh của người lớn cho mình mà quá trình ngược lại thường ít. Khá nhiều gđ nghèo thì anh chị phải bỏ học để làm ruộng dành tiền cho em út học hành...

Khi nấu cơm điện, mình thường vo gạo bằng cách dùng nước lọc rồi nghiêng nồi chắt nước cho đến khi gạo chớm đổ sụp xuống thì mình dựng nồi lại, rồi mình đổ nước lọc vào nấu. Tuy vẫn còn nước vo gạo nhưng rất ít. Với mình thì thế là được. Nhưng khi quan sát một bạn Nhật nấu cơm thì bạn nhạy cảm đạo đức hơn mình. Bạn vo gạo bằng nước lọc rồi đổ tất cả gạo vào một rổ chờ 5 phút cho gạo khô rồi mới đổ gạo và nước lọc vào nồi nấu.
Read More »