Trong Lich Sử, Ấn Giáo và Phật Giáo Rất Gần Gũi Nhau

Trong Lich Sử, Ấn Giáo và Phật Giáo Rất Gần Gũi Nhau. Tu sĩ 2 tôn giáo có khi ở chung trong cùng ngôi đền trong khác mùa. Người dân cầu thần khấn Phật là bình thường.




Read More »

The Buddha and Mahavira as rivals?

This article points out Buddhism negatively perceives Mahavira (Nigantha Nataputta). Similarly, Jainism negatively perceives the Buddha:
https://www.quora.com/What-is-the-difference-between-Gautama-Buddha-and-Mahavira

They did not meet one another. Mahavira was older than the Buddha: https://buddhism.stackexchange.com/questions/22639/did-buddha-ever-met-mahavirjain-god

This article is Mahavira and the Buddha: http://buddhism.lib.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-ENG/keima.htm  

Compare 2 religions: https://www.diffen.com/difference/Buddhism_vs_Jainism

Compare another text: http://www.san.beck.org/GPJ3-Mahavira,Buddha.html  

Very bias that mahavira vomited with hot blood: https://palisuttas.wordpress.com/2015/11/01/upali-sutta-mn-56/

Vietnamese: https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung56.htm 
Read More »

Đức Phật Thích Ca Sinh Năm Nào?

Read More »

3 Bài Thơ Chúa Giáng Sinh của Thầy Pháp Hoan

Chúa Ra Đời Giữa Đêm Đầy Sao

Ngọn gió mát lành đưa mây rời đại dương
làm căng những cánh buồm
lướt nhẹ trên mặt biển,
gió nâng đôi cánh thiên thần
đường dài thêm sức mạnh.
Ngọn gió đóng vai ông thầy tu
viếng thăm khu vườn nhà vua,
tiếng thì thào to nhỏ
của hàng ngàn chiếc lá
đang tranh nhau xưng tội.
trước khi lìa bỏ cuộc đời ngắn ngủi
xuống đất đen.
Gió thổi đến hoang mạc xa xôi
làm mát lành những vùng đất tội lỗi
làm thanh thản nét mặt những kẻ hành hương
đang mơ màng ngủ trên lưng lạc đà
trong một đêm đầy cát, gió và thần thoại
khi tất cả đang cùng nhau dịch chuyển
dưới ánh sáng ngôi sao chỉ đàng.
Đêm nay trên trời đầy sao
báo hiệu Đức Chúa ra đời.
Waldbroel, 11. 2012

Trước Phục Sinh

Lạy Chúa! Người có phải Thượng đế của con?
Người đã ở đâu dưới cơn mưa nặng hạt?
Trong không khí thành Jerusalem ngột ngạt
Có ai chỉ cho Người con đường đến với tình yêu?
Có ai đi lên đồi và khóc trước bình minh?
Có ai đưa tang những cổ tay bầm tím?
Có ai ngồi một mình trong căn phòng đóng kín
Nhảy múa đến tận lực rồi ngã qụy trước niềm đau?
Kìa bóng ai trên cánh đồng đừng vội bước đi mau
Trong hoàng hôn dài đâm xuyên qua cánh cửa
Giữa nền trời cháy lên trăm ngàn con sóng lửa
Một bàn tay ngả bệnh đang hấp hối trên một bàn tay
Không còn những đêm đông nghe Người kể chuyện
Không còn những con đường nơi Người đã đi qua
Không còn cơn gió thổi đến khi vũ trụ đơm hoa
Không còn tình thương chứa trong từng hạt muối
Trên cánh đại bàng sáng nay mặt trời báo tin vui
Một cáng buồm vừa trở về từ đại dương bão tố
Một dòng sông đã tìm thấy lối đi thoát ra ngoài bóng tối
Và thế giới trở mình lần nữa đón ánh bình minh.
2012

Chiều Thu

Ánh sáng mùa thu tràn qua cửa sổ phòng khách một ngôi tu viện kín
Những vật trang trí bằng bạc sáng lên trong không khí tĩnh lặng vĩnh hằng
Khuôn mặt đau đớn của Đức Chúa Giêsu đương trở nên thanh thản dị thường
Vệt máu trên cánh tay Ngài vừa tan đi không để lại dấu vết.
Tất cả khuôn mặt của những vị khách khả kính bên trong
Phút chốc chìm vào những suy tư thẳm sâu về cuộc sống:
Niềm tin có phải là cách chúng ta đã đến với cuộc đời?
Tình yêu có phải là ngôi đền cuối cùng nơi linh hồn ta trú ngụ!
Dòng ánh sáng cuối buổi hoàng hôn đương tràn mạnh thêm vào
Xô đẩy những linh hồn thoát ra khỏi thân xác từ lâu quá rã rời mỏi mệt
Rồi hóa thành những thánh thiên thần vỗ cánh bay lên.
2012
Read More »

Thần Hoá Xảy Ra Không Chỉ Trong Phật Giáo Mà Còn Trong Các Tôn Giáo Ấn Độ

Ngài thiền sư Nhất Hạnh dạy Thần Hoá là 1 trong 2 quyến rũ lớn trong Phật Giáo. Tức là thế hệ đời sau đưa Đức Phật lên mức cao tột, đầy uy lực, quyền năng vô song hay đại loại như vậy.
Rồi vẽ ra lịch sử của Ngài rất đẹp đẽ, sang trọng, và xa hoa...

Khi học về các tôn giáo Ấn Độ, mình biết thật ra có thể nói Thần Hoá là điểm chung trong văn hoá tôn giáo Ấn Độ. Trong Phật Giáo (Buddhism) thì bảo rằng Tất Đạt Đa (Siddhartha, người sau này thành Phật) là hoàng tử ở thành Kapilavastu. Trong Ấn Độ Giáo (Hinduism) thì bảo rằng Rama là chàng hoàng tử của xứ Ayodhya. Trong Kì Na Giáo (Jainism) thì bảo rằng Mahavira là hoàng tử của xứ Lichavi.

Các tôn giáo Ấn Độ ngày xưa cạnh tranh nhưng học hỏi lẫn nhau (chuyện cạnh tranh nhưng học hỏi lẫn nhau cũng có xảy ra trong các tông phái Phật Giáo). 
 
 Đây là bài giảng về 2 quyến  rũ lớn trong lịch sử tư tưởng Phật Giáo: https://langmai.org/tang-kinh-cac/bai-viet/hai-quyen-ru-lon-trong-lich-su-tu-tuong-phat-giao/

Read More »

Tôn Giáo Học Từ Nhiều Cách Tiếp Cận

Xin giới thiệu cuốn sách hay về tìm hiểu Tôn Giáo qua nhiều hướng tiếp cận.
Cách đây vài tháng mình có giảng 1 bài về các trường phái nghiên cứu tôn giáo.
Hướng học hỏi và truyền bá tôn giáo truyền thống là theology. Dịch chữ này ra tiếng Việt là thần học e không đúng. Đại khái hiểu về cách này đó là học hỏi kinh điển trong tôn giáo nào đó rồi giảng dạy lại cho tín đồ. Điều này có từ ngàn xưa và sẽ tiếp tục trong tương lai. Đây là phương pháp phổ biến nhất trong quá khứ. Chữ thần học theo định nghĩa là học về Thượng Đế hay Đấng Sáng Thế. Theo một số tôn giáo như đạo Khổng, Lão, Phật, hay Jainism thì không quan tâm đến khái niệm này (kiểu như hỏi nhà toán học hay nhà kinh tế đấng tạo hoá có hay không? Nhà toán học hay nhà kinh tế trả lời là không có mối quan tâm ấy.) Vì thế trong các tôn giáo này, chữ theology là không phù hợp. Tuy vậy, chưa có chữ nào hợp lý hơn nên cứ phải dùng vậy. Ngôn ngữ là tương đối mà thôi. Nhờ cách này mà kinh, luật, luận của Phật Giáo được học hỏi, thực hành, và truyền về thế hệ sau.
Lịch Sử Tôn Giáo là một hướng nghiên cứu lớn trong tôn giáo.
Tôn Giáo Tỉ Giáo (So Sánh Tôn Giáo này với Tôn Giáo kia hay các tông phái hay các kinh điển trông cùng tôn giáo).
Triết Học Tôn Giáo cũng là một hướng lớn. Trong hướng này có một hướng nhỏ gọi là Hiện Tượng Học Tôn Giáo. Hướng này có tính khoa học. Nó cộng với Tâm Lý Học Tôn Giáo (cũng có tính khoa học) sinh ra Khoa Học của Tôn Giáo.
Rồi một số trường phái nghiên cứu tôn giáo có tính khoa học (nằm trong khoa học xã hội) như Nhân Chủng Học Tôn Giáo, Xã Hội Học Tôn Giáo.
Xin nói thêm là tôn giáo được xếp vào Nhân Văn (humanity). Nó không có tính khoa học (có hai loại khoa học là Khoa Học Tự Nhiên như Vật Lý, Hoá, Sinh...) và Khoa Học Xã Hội. Nhân Văn không phải khoa học xã hội mặc dù nó rất gần. Nhiều tín đồ trong nhiều tôn giáo hay nói tôn giáo tôi rất khoa học nhưng thực ra không chắc đâu. Ví dụ sơ để thấy có 2 lý thuyết khoa học về con người và vũ trụ là thuyết tiến hoá của Darwin đại khái sự sống tiến hoá từ đơn giản đến phức tạp, ví dụ cụ thể là từ khỉ thành người. Lý thuyết thứ hai về vũ trụ là vũ trụ này xuất phát từ một Vụ Nổ Lớn (Big bang) cách đây 13.8 tỉ năm. Có tôn giáo nào phù hợp với 2 lý thuyết khoa học này? Chả có.
Khi khoa học không phù hợp với tôn giáo thì một số tín đồ bảo lý thuyết khoa học ấy sai rồi. Khoa học sẽ phát triển đưa ra lý thuyết mới...Đại khái công thức chung trong tâm lý tôn giáo về vấn đề này là 2 mục:
1. Tôn giáo tôi rất phù hợp với khoa học. Thí dụ thế này thế kia.
2. Nếu khoa học không giống với tôn giáo thì khoa học sai.
Mình chưa bàn tôn giáo hay khoa học bên nào đúng bên nào sai; mình chỉ nói có nhiều khác biệt trong tuyên bố hay nhận định giữa tôn giáo và khoa học.
Trong chính trị có khái niệm kiểm soát và cân bằng (checks and balances). Mình không biết nhiều về chuyện này nhưng mình nghĩ một cá nhân hay tổ chức tôn giáo nào nên có sự cân bằng (trong học hỏi, thực hành, và truyền bá tôn giáo) giữa hai hướng tiếp cận thần học truyền thống và khoa học của tôn giáo. Nếu thiên lệch về một trong hai thì cá nhân/tập thể ấy không đi xa được.
Thí dụ. Nếu anh đi theo hướng truyền thống theology thì anh vào một cơ sở tôn giáo tu và học hỏi giáo lý của tôn giáo ấy. Đây là hướng truyền thống. Tuy vậy, có một số điều trong tôn giáo ấy đã sai theo quan điểm khoa học mà nếu anh không có hướng tiếp cận khoa học của tôn giáo thì anh không biết. Anh chỉ tin nó đúng vì điều đó được ghi trong kinh điển tôn giáo tôi. Như thế nguy hiểm. "Tôn giáo không khoa học là mù quáng," ai đó đã cảnh báo như vậy.
Ngược lại, nếu anh học tôn giáo theo quan điểm của ngành khoa học nào đó thí dụ Tâm Lý Học Tôn Giáo chẳng hạn. Thì anh có tinh thần khoa học, anh kiểm chứng bằng thí nghiệm và dùng toán thống kê để ra quyết định vấn đề đó đúng hay sai theo phương pháp khoa học. Nhưng cái dở của phương pháp này là anh chả hiểu gì về nội dung tôn giáo mà anh nghiên cứu hết. Không nên để cho cái mác "khoa học" làm cho mình loá mắt không biết rằng khoa học có nhiều hạn chế, không phải ông thần đèn có thể làm mọi thứ. Ví dụ cụ thể một nàh khoa học tâm lý khi nghiên cứu tôn giáo cụ thể Phật Giáo, thiền, thì người này dùng một số máy móc để đo đạc sự thay đổi cấu trúc não bộ của một người tu thiền. Nếu người này tu 1 tiếng ngồi thiền một ngày thì trong bao lâu có kết quả khác biệt mà máy có thể đo được? Thí dụ sau 1 tháng có kết quả thấy được từ máy thì thí nghiệm nghiên cứu khác đi, thí dụ như sau 1 năm thì máy đo tăng lên bao nhiêu? Hay tăng lên 3 tiếng thiền một ngày thì sau 1 tháng sẽ khác ra sao, vân vân. Rồi nhà khoa học ấy công bố kết quả trên một tạp chí nào đó.
Công việc là thế. Nhưng nhà tâm lý ấy chả biết Kinh, Luật, Luận nhiều, cũng như chả hành trì gì. Đây là bất lợi vì bản thân người ấy cũng không học và không tu tôn giáo ấy được bao nhiêu mà giảng dạy cho tín đồ tu cũng không được. Cùng lắm chỉ thuyết trình vài buổi chứng mình được một số khám phá mà thôi. Không đưa con người từ phàm sang thánh được. Chúng ta không nên bị những chữ như "phương pháp khoa học" hút hồn. Khoa học không tôn giáo thì khập khiểng!
Phải quân bình giữa 2 hướng học tập tôn giáo là thần học kiểu truyền thống và một hướng nào đó có tính khoa học mới được.
Tất nhiên là còn có những hướng tiếp cận khác như Kinh Tế và Tôn Giáo, Chính Trị và Tôn Giáo, Nữ Quyền và Tôn Giáo, Tôn Giáo và Nghệ Thuật....
Tuy chưa đọc nhưng mình rất quý cuốn sách này. Đây là cuốn sách cần thiết cho ai muốn đi vào tìm hiểu tôn giáo cũng như cống hiến cả đời vào tôn giáo nào đó. Điểm hạn chế của cuốn sách này, mình xin mạo muội chỉ ra dù chưa đọc, đó là hơi cũ. Cuốn này đã xuất bản 20 năm rồi. Theo quan điểm học thuật Hoa Kỳ thì một số hiểu biết về Khoa Học Xã Hội sẽ lạc hậu đến mức không chấp nhận được sau 5 năm. Với Nhân Văn thì 10 năm. 20 năm là cũ lắm rồi. Bản thân mình khi học ở Mỹ thường phải mua sách mới xuất bản hay tái bản. Khoa học đã trở thành văn hoá.
Tuy vậy, chuẩn mực hàn lâm của Mỹ thì quá cao, chả phải quốc gia nào cũng chạy theo nổi, nhất là những quốc gia sử dụng ngôn ngữ khác tiếng Anh. Dịch thuật đòi hỏi thời gian nên dù là cường quốc cũng khó sánh được với Mỹ về vấn đề này. Huống hồ là một nước nghèo chậm phát triển. Phải chấp nhận thôi. 20 năm cũng tạm có thể chấp nhận được để đọc và chỉ cần biết rằng ở Mỹ người ta cho rằng cuốn này đã lạc hậu. Chỉ cần có ý niệm thế thì khi đọc cuốn này sẽ rất lợi lạc.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Tôn Giáo Học Từ Nhiều Cách Tiếp Cận đến các bạn.


Read More »

Nhìn Đời Bằng Lăng Kính Chủ Quan Từ Tôn Giáo Mình

Trong tôn giáo, không khéo mình bị bệnh nhìn thế giới khách quan theo cặp kính màu của tôn giáo mình.Như thế thì không khách quan mà cũng không đúng sự thật.
Ví dụ là theo Ấn Độ Giáo thì Phật Thích Ca chỉ là một hoá thân của Vishnu, một vị thần trong Ấn Độ Giáo. Chuyện này là một đồng thuận khả phổ biến trong tôn giáo này. Mình có hỏi Krish, chàng sinh viên Ấn Độ Giáo đang trong kí túc xá mình ở thì chàng công nhận như vậy.
Mặt khác, theo một tông phái (Kinh Điển) của Phật Giáo thì một vị Bồ Tát khi lên đến thập địa thì có thần thông có thể hoá hiện làm Siva, một vị thần trong Ấn Độ Giáo! Đây là điều nằm trong Kinh Dasabhumika. Mình xin gửi lên đây cái ảnh mình chụp đoạn ấy để tiện theo dõi (trang 181, bấm vào ảnh sẽ thấy rõ).
Hiện tại, một số trường tốt ở Mỹ không dạy Tôn Giáo Tỷ Giáo nữa. Lí do là khi đứng từ tôn giáo này nhìn qua tôn giáo kia thì mình có lăng kính chủ quan nên không hiểu tôn giáo kia như nó là. Vì thế, họ (thí dụ Rollins College) dạy luôn một số môn về một tôn giáo nào đó.



Read More »

Phần Lớn Các Câu Chuyện Tiền Thân Phật (Jatakas--Bổn Sanh) Là Do Đời Sau Sáng Tác

Trong bài này thiền sư Nhất Hạnh đã dạy phần lớn 500 câu chuyện tiền thân Phật (Jataka-Bổn Sanh) là do người đời sau sáng tạo ra rồi thêm vào kinh điển. Nó bắt đầu từ Đại Chúng Bộ rồi sau đó Thượng Toạ Bộ cũng học theo nên có cả trong hai tạng kinh Nikayas và A Hàm:
https://youtu.be/-yMGz_H8QA8?fbclid=IwAR3pIDwbjU_dzSnKzoMJ0Uno0TEsfIEYgxH_3V2pcMwb3nQnJx46otTIGVE   
Hoà Thượng Thích Minh Châu cũng cùng nhận định là hơn 500 bài Kinh này không phải do Phật giảng: "Ở đây, một vấn đề phải được đặt ra là "ai là tác giả các tập Jàtaka này?" Tuy bộ này được phân loại vào Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh), tức là một trong năm tập Nikàya, Kinh tạng, và mỗi câu chuyện đều được diễn tả như là đức Phật đã kể lại, chúng ta có những lý do xác đáng để khẳng định tác giả các tập này phải là các vị Tỳ-kheo, hoặc sống trong thời đức Phật, hoặc sau đó khoảng vài chục năm. Vì chỉ có những vị này mới thông hiểu được tổ chức của Giáo hội và hiểu được những mẫu chuyện dân gian của Ấn Ðộ Vì chỉ những người am hiểu dân tình, đồng quê xứ sở Ấn Ðộ mới có thể ghi nhận và trình bày được." https://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbkin168.htm
Read More »

Chuyển Luân Thánh Vương Trong Thế Giới Ngày Nay

Trong văn hoá Phật Giáo có hình tượng Chuyển Luân Thánh Vương (Universal Monarch). Đây là ước mơ của nhiều người dân, người Phật Tử có một vị vua thống nhất lãnh thổ bao la với quân đội hùng mạnh nhưng lại không sử dụng bạo lực chiến tranh mà chỉ dùng đức trị.
Hình ảnh một vị Chuyển Luân Thánh Vương như thế rất đẹp. Có lẽ trong kinh nghiệm thực tiễn cho thấy là chỉ sử dụng từ bi làm vũ khí sẽ không đấu lại với vũ khí giáo gươm thật nên các thế hệ Phật Giáo đã tạo ra hình ảnh Chuyển Luân Thánh Vương với quân đội mạnh. Thật vậy, theo thực tế thì có quân đội mạnh mới thống nhất bờ cõi được, không để giặc giã hoành hành chia năm xẻ bảy đất nước. Từ bi mạnh không thống nhất bờ cõi được trên thực tế.Vì thế nên trong thời đầu, Chuyển Luân Thánh Vương không đề cập đến là người phải có quân đội mạnh. Sau này mới thêm vào việc có quân đội mạnh.
Tuy vậy, sau khi thống nhất bờ cõi rộng lớn, vua ấy chỉ dùng đức trị mà không tiến hành chiến tranh hay đại loại như vậy. Chuyện này liệu có thể đúng cho thế giới ngày nay?
Mình e là mình không đủ hiểu biết để trả lời câu hỏi này đầy đủ và đa chiều. Mình chỉ muốn chia sẻ là rất khó để không sử dụng bạo lực chiến tranh đối với một cường quốc trong thế giới thật hiện nay.
Nhiều quốc gia hiện tại phải tạo ra kẻ thù để đoàn kết dân chúng theo quy luật gọi là external threats breed internal unity (Sự Đe Doạ Bên Ngoài Nảy Sinh Sự Thống Nhất Bên Trong). Một quốc gia như Hoa Kỳ gồm nhiều người dân đến từ các nền văn hoá xa lạ nên nhân tâm ly tán. Rất khó để họ lại cùng hợp nhất lại (để ủng hộ tổng thống, ví dụ). Thế là chính trị gia cứ phải tạo nên kẻ thù để thống nhất nhân tâm. Theo thời gian thì kẻ thù có thể thay đổi nhưng luôn luôn có kẻ thù. Và phải chiến đấu chống lại nó. Chính trị gia có thể sử dụng kiểu này để kiếm phiếu: tiến hành chiến tranh. Làm như vậy thì dân sẽ ủng hộ lãnh đạo ấy. Khi thấy tỉ lệ ủng hộ mình thấp thì tiến hành chiến tranh là một giải pháp tốt để giữ vững ngai vàng mặc dù việc này nó chả đạo đức gì, ngược lại nó rất ác, nhưng thiện ác là thuộc về đạo đức mà chính trị lại là chuyện khác, có khi nó có đạo đức, có khi không.

           Tỉ lệ ủng hộ tổng thống Bush con tăng vọt khi ông tuyên chiến chống khủng bố Afghanistan (2001) và Iraq (2003).
Trong ảnh là bài học trong lớp Tâm Lý Học Xã Hội về 2 cuộc tuyên chiến của tổng thống Mỹ Bush con đánh vào Afghanistan (năm 2001, ngay sau vụ khủng bố) và cuộc chiến Iraq (2003) và tỉ lệ ủng hộ tổng thống Mỹ cùa người dân. Vào đầu và giữa năm 2001, tỷ lệ ủng hộ ông Bush chỉ 60-50%, nhưng khi có đe doạ bên ngoài (khủng bố) và tổng thống tuyên chiến thì tỉ lệ ủng hộ ông ấy vọt lên 90%. Sau đó tỉ lệ ủng hộ ông ấy giảm dần đều đến đầu năm 2003 còn chưa tới 60% thì ông ấy lại tuyên chiến với Iraq làm số lượng ủng hộ ông ấy tăng hơn 70%. 
Điều này có nghĩa chiến tranh có lợi cho nguyên thủ trong một chính thể dân chủ đầu phiếu. Thế là, như đã nói, cứ phải cố tạo ra kẻ thù và tiêu diệt nó. Không có kẻ thù thì phải tưởng tượng ra rồi đánh phủ đầu.
Uỷ ban Nobel đã trao Nobel Hoà Bình cho Obama năm 2009, lúc ấy suy thoái kinh tế Mỹ đang lao dốc. Vì suy thoái nên thất nghiệp gia tăng nên dân ấy bất mãn có nguy cơ ủng hộ đảng đối lập. Nó có nghĩa là khả năng tổng thống Mỹ tuyên bố một cuộc chiến tranh là cao (lợi ích là dân chúng ủng hộ ông ấy tăng vọt, cộng với chiến tranh làm tăng kinh tế vì bán vũ khí). Giải Nobel này có tác dụng làm ngăn ngừa chiến tranh hơn, làm người nhận phải có trách nhiệm duy trì hoà bình hơn là thành quả hoà bình ông ấy đã đạt được.
Hình ảnh vị Chuyển Luân Thánh Vương có quân đội mạnh nhưng lại không sử dụng vũ lực rất đẹp và là ước mơ của bao người, nhưng ứng dụng trong thế giới thực ngày nay quả là rất khó.
Trong bài này có đoạn ngài thiền sư Nhất Hanh giảng về Chuyển Luân Thánh Vương: http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/buoc-dau-hoc-phat/dd-dao-phat/12793-Chung-ta-co-phai-la-tri-ky-cua-But-khong-.html 






Read More »

Đức Phật Có Ý Kiếm Một Vị Thầy Để Xin Nương Tựa

Có lần, dù đã thành Phật, mà Đức Phật có tư tưởng muốn kiếm một vị xin nhận làm Thầy để nương tựa (nhưng kiếm không ra). Bài Kinh này có nhiều nghĩa, chỉ xin gợi ý chút thôi.
Vào thời kì đầu của Phật Giáo, Phật là một con người chứ không phải là thần linh với nhiều quyền năng thần thông biến hoá. Mãi đến khi Phật Giáo Đại Thừa xuất hiện thì mới tô vẽ thần hoá Phật lên (điều này bắt đầu khoảng thế kỉ 1 sau công nguyên về sau).
Khi thành Phật thì có nhiều điều khác biệt với người thường. Một trong những khác biệt ấy là bất bạo động. Nhưng bất bạo động trong thế giới còn bạo lực này thì cũng giống làm con nai trong khu rừng. Khu rừng có nai, hưu, chim chóc và hoa trái, nhưng rừng cũng có hổ beo sẵn sàng ăn thịt bất cứ lúc nào. Bồ Tát sợ nhân--chúng sanh sợ quả: Người giác ngộ thấy cái quả rõ ở mỗi hành động mình tạo nên họ không muốn tạo ác nghiệp, do đó họ bất bạo lực. Người thường khác đi.
Vì lẽ ấy, Phật phải "tuyển sinh" đông đảo và nhanh, thủ tục đơn giản. Khả năng để những kẻ khác tiêu diệt một nhóm người nhỏ là cao, nhưng không dễ diệt sạch một cộng đồng đông đảo. Con nai đứng lẻ loi dễ bị ăn thịt nhưng có cả đàn nai thì dễ sống sót hơn. Vì thế nên thời Phật thì trở thành thầy tu dễ thôi, chỉ đọc ba câu quy y Phật, Pháp, Tăng là được rồi. Số lượng tăng vọt nhưng chất lượng cũng là vấn đề đáng trăn trở. Vì Phật giỏi nên Ngài có thể khai thị cho một số lượng người giác ngộ. Tuy vậy, số chưa giác ngộ nhiều. Thậm chí còn có nhiều thầy không hiểu giáo lý hay hiểu lầm, thậm chí hiểu ngược ý Phật dạy. Chuyện này cũng thường thôi.
Sau này, Phật Giáo tổ chức lại thì nhìn chung phải mất sớm lắm là 4 năm mới được làm thầy (1 năm tập sự, 3 năm Sadi).
Cũng xin nói thêm, có vẻ như người xuất gia thế kỉ 21 này được bảo vệ tốt hơn thời xưa. Thời nay có pháp luật chặt chẽ nên chuyện các tôn giáo diệt nhau là không dễ (tuy vẫn và sẽ tiếp tục có chuyện đó). Ngày xưa luật pháp lỏng lẻo nên chơi luật rừng là nhiều (và sự thật là Phật Giáo ở Ấn Độ đã bị diệt sạch sành sanh).
Thành Phật rồi mà bảo vệ chính mình còn khó; đừng nghĩ Phật nhiều phép thuật uy lực như le lưỡi dài cả vũ trụ như Kinh Di Đà mà tin vào chuyện đó (nghĩa bóng bẩy mà thôi). Ngài từ người thường như chúng ta mà thành Phật được. Chúng ta trên lý thuyết cũng có thể thành Phật được. Đó là tin vui.
Bài Kinh ấy đây:

"II. Cung Kính.
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Uruvelà trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Ajapàla Nigrodha, khi Ngài mới thành đạo.
2) Và Thế Tôn trong khi Thiền tịnh độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Thật là khó khăn, sống không có cung kính, không có vâng lời. Vậy Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn".
3) Rồi Thế Tôn, suy nghĩ: "Với mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn chưa được đầy đủ, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn khác. Nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, Ác ma và Phạm thiên, giữa các Sa-môn, giữa quần chúng loài Trời hay loài Người, không có một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, với giới uẩn cụ túc, tốt đẹp hơn Ta mà Ta có thể cung kính, tôn trọng và sống y chỉ".
4) "Với mục đích làm cho đầy đủ định uẩn chưa được đầy đủ, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn khác..."
5) "Với mục đích làm cho đầy đủ tuệ uẩn chưa được đầy đủ..."
6) " Với mục đích làm cho đầy đủ giải thoát uẩn chưa được đầy đủ..."
7) "Với mục đích làm cho đầy đủ giải thoát tri kiến uẩn chưa được đầy đủ, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào một Sa-môn hay Bà-la-môn khác. Nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong thế giới chư Thiên, Ác ma và Phạm thiên, giữa quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, giữa loài Trời hay loài Người, không có một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, với giải thoát tri kiến uẩn tốt đẹp hơn Ta mà Ta có thể cung kính, tôn trọng và sống y chỉ".
8) "Với pháp này, Ta đã chánh đẳng giác, Ta hãy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ pháp này".
9) Rồi Phạm thiên Sahampati với tâm tư của mình biết được tâm tư của Thế Tôn, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, vị ấy biến mất ở Phạm thiên giới và hiện ra trước mặt Thế Tôn.
10) Rồi Phạm thiên Sahamapati đắp thượng y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
11) -- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn, trong thời quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, chư Thế Tôn ấy cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào (Chánh) pháp. Bạch Thế Tôn, trong thời vị lai, các vị ấy sẽ thành A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác, chư Thế Tôn ấy sẽ cung kính, tôn trọng và sẽ sống y chỉ vào (Chánh) pháp. Bạch Thế Tôn, mong rằng trong thời hiện tại, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác cũng cung kính, tôn trọng và sống y chỉ vào (Chánh) pháp.
12) Phạm thiên Sahampati nói như vậy, sau khi nói như vậy, lại nói thêm như sau:
Chư Phật thời quá khứ,
Chư Phật thời vị lai,
Và đức Phật hiện tại,
Ðoạn sầu muộn nhiều người.
Tất cả các vị ấy,
Ðã, đang và sẽ sống,
Cung kính và tôn trọng,
Pháp chơn chánh vi diệu,
Pháp nhĩ là như vậy,
Ðối với chư Phật-đà.
Do vậy, muốn lợi ích,
Ước vọng làm Ðại nhân,
Hãy cung kính, tôn trọng
Pháp chơn chánh vi diệu,
Hãy ghi nhớ giáo pháp,
Chư Phật Chánh Ðẳng Giác."

Bài này nằm trong Tương Ưng Bộ Kinh: https://www.budsas.org/uni/u-kinh-tuongungbo/tu1-06.htm?fbclid=IwAR0bLTXH0Izria1osSRYdESyXOMRZG_bGsfzu1qvsd46dFGuYbQmK2wbSHM
Read More »

Bài tham luận đọc tại Đại Hội Tăng Già Thế Giới (WBSC)

 Họp tại Penang Malaysia từ ngày 10 đến ngày 15.11.2018 của 
Hoà Thượng Thích Như Điển
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Âu Châu
Người Việt Nam có mặt đông nhất tại Âu Châu bắt đầu từ sau năm 1975 và có thể kể đến các nước như : Nga, Pháp, Đức, Anh v.v… hiện tại của năm 2018 nầy nếu chúng tôi không lầm thì tại Âu Châu có chừng gần 1 triệu người trong số trên 3 triệu người Việt Nam hiện đang có mặt trên thế giới. Trong đó đa số là Phật Tử. Do vậy khi đến bất cứ một đất nước nào để tỵ nạn hay làm việc, chư Tăng Ni và Phật Tử thường hay tìm một nơi chốn để làm Niệm Phật Đường hay chùa Viện để có nơi tu học và thực hành những nghi lễ cần thiết như đám tang, đám cưới và nghe thuyết giảng v.v…
Riêng tại Âu Châu nầy số lượng chùa viện của người Phật Tử Việt Nam hiện nay cũng đã xây dựng hay thuê mướn lên đến hơn 100 ngôi cả lớn lẫn nhỏ, so với gần 1.000 ngôi chùa của người Việt hiện có mặt khắp nơi trên thế giới. Nhiệm vụ của người Việt Phật Tử rất rõ ràng và chia ra làm hai phần như sau :
Thứ nhất là hội nhập vào văn hoá, Tôn Giáo, đời sống thực tiễn tại nơi mình cư ngụ và thứ hai là bảo tồn cũng như phát huy văn hoá và Tôn Giáo của mình nơi xứ người. Chỉ hai phạm trù nầy thôi cũng đã là một gánh nặng không ít đối với chư Tăng Ni và Phật Tử rồi. Điều đầu tiên là họ phải học ngôn ngữ địa phương để hội nhập và việc thứ hai là làm sao cho người bản xứ cũng hiểu được thế nào là Phật Giáo để từ đó họ dễ dàng hoạt động cũng như sinh sống tại các xứ sở nầy.
Cá nhân chúng tôi từ Việt Nam sang Nhật Bản du học từ năm 1972 và năm 1977 đã sang sống tỵ nạn Tôn Giáo tại Đức Quốc từ đó đến nay cũng đã hơn 40 năm rồi; nên với chúng tôi việc khó khăn nhất trong hiện tại là làm sao duy trì được Phật Giáo truyền thống hay Phật Giáo cải cách tại những xứ sở nầy. Bởi lẽ thế hệ thứ hai, thứ ba sẽ có ít người đi xuất gia nữa, mà phải gầy dựng giáo lý Phật Đà cho những người bản xứ thì may đâu ngày sau sẽ không sợ những ngôi chùa Việt Nam đã, đương và sẽ xây dựng sẽ không đi vào vết xe đổ nát của những người Trung Hoa tại Hoa Kỳ sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 vừa qua. Vì lẽ những ngôi chùa mà người Hoa xây dựng thưở ấy, nay đã không còn nữa.
Hiện tượng những người Âu Châu bỏ đạo Thiên Chúa hay Tin Lành rất nhiều và không nhất thiết là họ sẽ đến liền với Phật Giáo. Vì vậy đây là khoảng trống tâm linh mà chúng ta những người lãnh đạo tinh thần nên nhắm vào đó để xoa diụ và giúp đỡ họ. Tôi thiết nghĩ rằng Phật Giáo không phải là không thể thực hiện được điều đó, mặc dầu chúng ta không có cơ quan truyền giáo như những Đạo khác tại đây. Tôn Giáo ngày hôm nay phải là tôn giáo của Từ Bi và Trí Tuệ, nhằm hướng nhân tâm đi vào con đường giải thoát một cách tích cực và rõ ràng hơn. Nếu không, chúng ta cũng sẽ không khác những Tôn Giáo khác là bao nhiêu.
Tại Đức ngày hôm nay đã có hằng trăm trung tâm tu học của người Đức và do chính những người Đức Cư Sĩ hay Tăng Sĩ hướng dẫn. Đồng thời những Đại Học lớn tại đây cũng đều có những phân khoa Phật Học hay Tôn Giáo Học, giúp cho Sinh Viên có thể dễ dàng chọn môn học thích hợp của mình và một tin vui nữa là : Hiện có hơn 10 triệu người Đức không ăn thịt và những món chay làm từ đậu nành đang được phổ biến rất nhiều tại xứ nầy. Tuy họ chưa hẳn đã là những người Phật Tử; nhưng nếu chúng ta khéo léo kết hợp giáo lý Từ Bi của Đạo Phật vào việc nầy thì Phật Giáo sẽ dễ dàng hội nhập vào xã hội Đức hay các xã hội Tây Phương một cách nhanh chóng và giúp cho họ có một hướng đi đích thực hướng đến dời sống tâm linh của mỗi người.
Cố Hoà Thượng Thích Tâm Châu, cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi, Cố Hoà Thượng Thích Thiền Định, Cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, cố Hòa Thượng Thích Minh Lễ, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh vốn là những vị Phó Chủ Tịch của Hội Đồng Tăng Già Thế Giới và cũng là những kiến trúc sư vĩ đại cho Phật Giáo Việt Nam nói riêng và Phật Giáo Âu Châu hiện tại ngày nay.
Kính chúc Đại Hội được thành công viên mãn và không quên hướng về Âu Châu để trợ duyên cho những Phật sự đang phát triển tại đây.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Read More »

Có NênThắp Hương (Đốt Nhang)?

Có một chùa hiếm hoi mà mình thấy trụ trì đã có đủ quyền uy tâm linh để nói không với thắp nhang. Hoà Thượng Thiện Quang bên Canada đã không cho thắp nhang trong chùa. Lý do: nhang ngày xưa là nhang trầm thơm hay nếu không phải trầm thì cũng không phải hoá chất độc hại như ngày nay. Đốt hoá chất lên xộc vào mũi Phật, bay khói khét cả vào Pháp (kinh sách) và nguy hại đến Tăng vì người thắp nhang 5 phút sau đi về còn người ngửi hoá chất ấy là tăng ni trong chùa chứ ai. Nhiều người xuất gia chết vì ung thư phổi trong khi họ không hút thuốc! Ở Việt Nam mỗi năm có đến 20 ngàn người chết vì ung thư phổi: http://www.sggp.org.vn/tai-viet-nam-moi-nam-co-hon-20000-nguoi-chet-vi-ung-thu-phoi-557604.html?fbclid=IwAR06B8i1W9bDp9dALUP31AShpbrM-S0bJQ8A3IDvsVU8O5Olp9gDHB8IWbs

Người Phật Tử thuần thành hãy thắp nhang thơm. Không có thì thôi cầu nguyện bằng tâm chứ đầu độc không khí người xuất gia thì chả có phước mà chỉ có tội mà thôi.
Read More »

Nói có sách, mách có chứng


Viết vấn đề gì có tính hàn lâm thì đều cần trích dẫn từ nguồn nào. Thí dụ với sách thì cuốn sách tên đầy đủ là gì, trang mấy, nhà xuất bản tên gì, thành phố nào xuất bản đầu tiên, phiên bản mấy, năm xuất bản, tên họ tác giả. Nếu không làm thế sẽ gặp rắc rối.
Tất nhiên viết không hàn lâm như facebook, email, nhắn tin...thì ko cần.
Có lần mình phụ sửa bài cho một bạn bên Châu Âu thì nhận ra bên ấy dùng kiểu trích dẫn khác bên Mỹ. Trên thế giới có nhiều kiểu viết trích dẫn. Thậm chí bên Canada cũng có kiểu viết trích dẫn riêng Vancouver (không biết có phải từ University of British Columbia hay không?) Tuy khác nhau không nhiều nhưng cần viết cho đúng.
Ở Mỹ, có 3 kiểu chính (thêm mấy kiểu phụ không kể) và mình viết được luôn 3 kiểu, chính xác mình viết được 4 kiểu.
1. Chicago. Dùng trong môn mình học ngày trước là Lịch Sử. Phật Học cũng dùng môn này. Kinh Doanh cũng dùng kiểu này. Trong này còn có một kiểu là Turabian nó rất giống với Chicago nhưng dễ viết hơn, như phiên bản thu gọn. Hiện mình đang xài kiểu này trong lớp học về Tôn Giáo. Đọc bài của ai viết kiểu này rất tiện vì mình thấy trích dẫn ngay dưới cuối trang, kiểu dùng footnote, mà không cần phải lật đến cuối bài hay cuối cuốn sách để xem tác giả hay tác phẩm.
2. APA (American Psychological Association). Kiểu này dùng để viết khi học về Tâm Lý Học, Xã Hội Học...nói chung là trong khoa học. Mình dùng kiểu này khi học mấy năm về Tâm Lý Học.
3. MLA (Modern Language Association). Kiểu này dùng cho các môn Nhân Văn như Luật, Ngôn Ngữ, Tiết Học, Nghệ Thuật, Văn Chương. Đây là kiểu phổ biến nhất. Hồi học Văn Chương, Nhân Văn,...mình đều dùng kiểu này.
Xin nói thêm để phân biệt lĩnh vực "Khoa Học Xã Hội" và lĩnh vực "Nhân Văn." Cái khác cơ bản là Nhân Văn có yêu cầu phê bình (critical) và phân tích (analytical) cao hơn trong khi Khoa Học Xã Hội thì yêu cầu tính khoa học (scientific) cao hơn. Có nghĩa là ở Mỹ, học về Khoa Học Xã Hội bắt buộc phải biết về toán mà điển hình là toán Xác Suất Thống Kê để thu thập dữ liệu và xử lí dữ liệu cũng như kết luận hay bác bỏ giả thiết. Nhân Văn có tính Triết Học cao hơn Khoa Học Xã Hội.
Tôn Giáo thì thuộc Nhân Văn nhưng kiểu viết có thể là Chicago hay APA. Nói chung có một số giáo sư cho chọn kiểu viết gì trong 1 bài cũng được nhưng phải liên tục (không được viết kiểu này đến nửa bài lại đổi kiểu kia) trong khi có gs thì bắt buộc chỉ chấp nhận 1 kiểu thôi. Thí dụ hồi học Lịch Sử, ông gs bắt buộc phải dùng kiểu Chicago lúc đó mình mới viết được kiểu MLA thôi nên mình khá khốn khổ vì không đủ thời gian tự học.
Read More »

Học bổng


                                                            Thích Như Điển 
Đã từ hơn 10 năm nay thể hiện tinh thần cộng sự và chia xẻ những khó khăn của Tăng Ni Sinh Việt Nam đang du học tại ngoại quốc cũng như trong nước; nên chúng tôi đầu tiên đã cấp phát học bổng cho quý Thầy đang học Đại Học cũng như Tiến Sĩ tại Hoa Kỳ, sau đó là Ấn Độ, rồi Thái Lan, Trung Quốc, Anh Quốc và sau nầy là Việt Nam. Điều nầy quý Hòa Thượng, quý Thượng Tọa trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu cũng như Hoa Kỳ đều nhiệt liệt hoan nghinh và Hòa Thượng Thích Hộ Giác còn đề nghị nên chuyển học bổng của Giáo Hội PGVNTN tại Đức cấp, trở thành học bổng của Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại cấp, để tiếng nói được mạnh hơn. Ở cơ sở nầy chúng tôi đã hoàn toàn đồng ý.
Hội Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn tại Cộng Hòa Liên Bang Đức cũng có chủ trương cấp phát học bổng cho Tăng Ni Việt Nam trong nước và đã được quý Đạo Hữu, Phật Tử xa gần hỗ trợ bằng cách cho mượn Hội Thiện không lời trong vòng 5 năm. Hội Phật Tử đã bỏ số tiền ấy vào Konto tiết kiệm để lấy tiền lời cấp phát học bổng. Chủ trương ấy đã được nhiều vị đồng ý. Hiện nay số tiền tiết kiệm nầy độ trên 100.000À và mỗi năm tiền lời độ 3.000À. Số tiền lời nầy chia làm ba. Cấp 20 học bổng cho Tăng Ni Sinh đang học cao cấp Phật Học tại Hà Nội. 20 cấp cho Tăng Ni Sinh đang học cao cấp tại Huế và 20 cấp cho Tăng Ni Sinh đang học cao cấp Phật Học Vạn Hạnh tại Sàigòn. Đó là chưa kể hàng trăm học bổng khác do chùa Viên Giác cấp cho các trường Trung Cấp Phật Học tại Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Nguyên Thiều (Bình Định) và một số nơi khác.
Riêng tại Ấn Độ hiện có 150 Tăng Ni Sinh Việt Nam đang học các ngành Tôn Giáo, Giáo Dục, Ngôn Ngữ v.v... ở các bậc Đại Học, Cao Học, Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Cũng đã có hơn 10 vị đã ra trường. Số còn lại đang trình luận án và sẽ trình luận án trong nay mai. Trong số 150 vị đó, chùa Viên Giác tại Hannover đã và đang cấp cho 100 vị. Số tiền mỗi năm chuyển 2 lần. Mỗi lần độ chừng 28.000À. Như vậy mỗi năm số tiền phải chuyển riêng cho Ấn Độ là 56.000À. Đa phần số tiền nầy là do quý Sư Cô tại chùa làm bánh để phát hành trong các dịp lễ mà có được. Nếu số tiền trên có thiếu thì trích ra từ quỹ Tam Bảo của chùa.
Tổng số học bổng mà chùa Viên Giác cấp khắp nơi mỗi năm lên đến 75.000À. Trong đó số đóng góp của các Phật Tử cũng có; nhưng rất khiêm nhường. Xin kêu gọi sự hưởng ứng của quý vị.
Chư Tổ dạy rằng: "Tạo tự dị, tạo Tăng nan". Nghĩa là "Xây chùa dễ, đào tạo Tăng khó". Đúng như thế. Nếu có một vị Tăng Ni xứng đáng thì có thể xây mấy ngôi chùa cũng được, chứ không phải chỉ một ngôi. Do vậy mà cá nhân tôi luôn luôn quyết theo con đường giáo dục nầy, là một con đường nhân bản mà chư Tổ đã bao đời truyền đạt lại. Xây chùa tuy dễ; nhưng ở ngoại quốc nầy cũng gian nan lắm. Còn những ai có tâm lo cho lớp hậu tấn thì số người ấy cũng chẳng có nhiều. Vì đa phần phải lo cho tự viện của mình, cũng như những Phật sự khác, làm sao có thể chu toàn được. Nói như thế không phải là không có. Ở Mỹ, Canada, Úc, Âu Châu vẫn có nhiều Thầy, Cô đang gia tâm hỗ trợ trong khả năng của mình; nhưng cũng chưa đồng bộ mấy. Dầu sao đi nữa đã có tâm giáo dưỡng như thế vẫn quý hóa vô cùng.
Tôi phát tâm đi từ tấm lòng của người đã được Giáo Hội PGVNTN cho đi du học tại Nhật Bản từ năm 1972; nên rất thông cảm cho nhiều Thầy Cô đang học tại ngoại quốc mà gặp khó khăn như thế; nên cố gắng giúp đỡ mà thôi. Ngoài ra không có một mục đích nào khác, ngoài mục đính là: đào tạo tăng tài để báo Phật ân đức. Nghĩ phận mình đã an, còn bao nhiêu kẻ chưa an thì phải lo giúp đỡ. Chỉ đơn thuần có thế. Cho nên một Thầy, Cô nào học xong ở học vị nào là tôi mừng vô kể. Vì chẳng uổng công đèn sách của mẹ cha và Giáo Hội cũng như người cấp phát học bổng, Khi niềm vui nói lên được, không có nghĩa là khoe khoang, cũng chẳng có nghĩa là tự ti mặc cảm hay danh tướng v.v... Vì tôi vẫn hay nói cho quý Thầy, quý Cô đệ tử của tôi tại chùa nghe trong giờ học là:
"Sự học nó không làm cho con người tu giải thoát được; nhưng nếu muốn mở cánh cửa giải thoát ấy, không thể thiếu sự tu và sự học được". Đành rằng người tu không cần bằng cấp. Vì bằng cấp ấy chẳng phải đi làm để nuôi thân; nhưng nếu ở đời tự xưng là một Bác Sĩ, Tiến Sĩ mà không có giấy tờ chứng minh thì ai dám cho mổ và chữa cho bệnh nhân, hay giảng bài trên giảng đường Đại Học ?
Ngày xưa Thánh Ghandi tranh đấu cho xứ Ấn Độ được độc lập từ người Anh. Ông ta đã qua Phi Châu và hô hào những người Ấn Độ tại đó không chấp nhận chính sách của người Anh cai trị tại Ấn Độ, thì nên xé bỏ bằng cấp cũng như giấy tờ của người Anh cấp. Ông là người xé đầu tiên cái bằng Cử Nhân Luật Học ấy. Nếu lúc ấy ông không có bằng mà hô hào người khác xé bỏ, không biết có ai nghe theo chăng ?
Trở lại vấn đề của chư Tăng Ni cũng thế. Bây giờ ở ngoại quốc mỗi ngày chùa nhận được rất nhiều thư từ giao dịch bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Nếu vị trụ trì ấy không đọc được thì phải nhờ đến đệ tử; nhưng đệ tử tại gia thì bận công ăn việc làm không tới chùa xem thư được. Khi đến thì thư kia đã hết thời hạn rồi. Như thế là đã lỡ mất một cơ hội.
Đầu tháng 10 năm 2003 vừa qua tôi có dịp sang Ấn Độ trước khi đi Úc, Thầy Hạnh Chánh và các Tăng Ni sinh đang du học tại đó, đa phần nhận học bổng từ chùa Viên Giác Hannover có tổ chức một bữa họp mặt, mừng khánh tuế của tôi, có gần 100 vị đến dự. Đồng thời có Thượng Tọa Khoa Trưởng Phân Khoa Phật Học tại Đại Học New Delhi và Thượng Tọa Minh Đức đến từ Việt Nam cũng đã tham dự tiệc vui nầy.
Ngoài ra Sư Cô Thích Nữ Minh Huệ, thế danh Võ Thị Hồng Nga, sinh năm 1957, xuất gia năm 1976 và thọ Tỳ Kheo Ni năm 1981. Sau đó học khóa II trường Cao Cấp Phật Học Vạn Hạnh tại Việt Nam từ 1988-1992. Đến Ấn Độ năm 1994 và đã trải qua các học trình Cao Học, Thạc Sĩ và đã tốt nghiệp Tiến Sĩ triết học tại Đại Học New Delhi ngày 22.02.2003. Đây là niềm vui chung của Ni giới và của đồng bào Phật Tử. Vì từ nay Ni giới cũng sẽ có những bậc Ni tài để ra giúp đời giúp đạo. Sư Cô cũng đã nhận được học bổng toàn phần của chùa Viên Giác cấp từ năm 1997 đến năm 2002. Mỗi năm 1.200 US$.





















Read More »

Nước Nga Bây Giờ

                                                          Hoà Thượng Thích Như Điển
Sau 25 năm, tôi đến lại nước Nga để thăm viếng lần nầy là lần thứ 6. Lần đầu vào năm 1994, nghĩa là mới chỉ sau 3 năm khi Liên bang các nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết bị sụp đổ; Liên bang Nga - một hình thức nhà nước mới được ra đời, nơi mà đảng Cộng sản không đóng vai trò độc tôn trong xã hội nữa. Những tưởng rằng, thành trì của phe xã hội chủ nghĩa ấy vẫn vững như bàn thạch, nhưng ngờ đâu, sau hơn 73 năm (1917-1991) tồn tại đã sụp đổ hoàn toàn bởi cuộc cách mạng dân chủ Nga do Yelsin, Tổng thống Nga chủ trương.
Cũng vào thời điểm năm 1994 nầy tại Moscow có mở ra Hội Nghị Tôn Giáo về Hòa Bình của Thế Giới. Từ Hoa Kỳ có Hòa Thượng Thích Trí Chơn, Hòa Thượng Thích Minh Tuyên và từ Âu Châu có Hòa Thượng Thích Minh Tâm đến tham dự, và cũng chính đây là cơ duyên để gặp gỡ Đạo hữu Nguyễn Minh Cần và Đạo hữu InnaMalkhanova, người Nga. Cả hai vị nầy đều là những học giả, những nhà nghiên cứu về văn hóa cũng như chính trị và ngôn ngữ Nga-Việt. Trong thời kỳ Liên Xô cũ, họ đã cố công đi tìm một nền Đạo Học Đông Phương, nên đã tìm đọc những sách vở và tư tưởng của Lev Tolstoy và cũng chính từ hai vị nầy, họ đã muốn thành lập một Hội Phật Giáo mang tên Thảo Đường tại Moscow, dưới sự lãnh đạo tinh thần của Hòa Thượng Thích Minh Tâm. Cũng trong mùa Hè năm 1994 nầy, hai Đạo hữu đã sang Đức và ở lại chùa Viên Giác tại Hannover nhiều ngày, sau đó xin Quy y Tam Bảo với tôi, tôi đã cho Đạo hữu Nguyễn Minh Cần Pháp danh là Thiện Mẫn và Đạo hữu InnaMalkhanova Pháp danh là Thiện Xuân. Đồng thời cũng mùa Đông lạnh buốt của năm 1994 nầy, Thầy trò chúng tôi cùng Hạnh Bảo sang Nga lần đầu tiên. Lần đó có quá nhiều ấn tượng, mà suốt đời tôi chẳng bao giờ quên.Những việc nầy đã có lần tôi viết trên báo Viên Giác rồi, nên lần nầy thiết tưởng cũng không cần phải nhắc lại nữa.
Sau năm 1994 tôi đã có mấy lần đến Nga trong lúc Niệm Phật Đường Thảo Đường chưa được thành lập, và sau khi thành lập rồi tôi cũng đã có vài lần đến, để rồi khoảng 10 năm sau không lui tới chốn nầy vì nhiều lý do khác nhau, mặc dầu lúc ấy Hội Phật Giáo Thảo Đường đã chính thức thỉnh tôi và Hòa Thượng Thích Minh Tâm làm lãnh đạo tinh thần của họ. Mãi cho đến năm 2013, tôi và Hạnh Giới mới đến Moscow trở lại và lần ấy cũng là lần chính thức làm lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Chùa Thảo Đường tại khu đất mới vừa tậu được. Ai ai cũng vui mừng, vì từ đây chùa khỏi phải còn đi thuê mướn và trả tiền thuê hằng tháng nữa.Thế nhưng việc xây dựng cũng nhiêu khê lắm.Trong khi xây dựng thì Đạo Hữu Chúc Nghĩa từ chức, Đạo Hữu Thiện Mẫn lo toan tìm cho đủ người thay thế vào đó. Cô Tâm Diệu Hương thì lo chạy giấy tờ, tiền bạc, Thiện Học, Tâm Nước Tĩnh, Trác,v.v…cũng đã nhọc công không ít và lắm việc đau đầu cho công trình xây dựng chùa còn dở dang như vậy. Trong lúc khó khăn như thế thì Đạo hữu Thiện Mẫn quá vãng, Đạo hữu Thiện Xuân lâm bịnh nặng, Hòa Thượng Minh Tâm cũng đã ra đi từ năm 2013 tại Phần Lan. Nội bộ các anh chị em không đồng thuận và không ai nói ai nghe được cả. Trong thời gian nầy một số quý Phật tử hữu tâm đã cung thỉnh chư Tôn Đức Tăng cũng như Ni đến hoằng pháp tại Nga như: HT Thích Quảng Bình, ĐĐ Thích Pháp Quang (Đan Mạch), HT Thích Thiện Huệ, TT Thích Quảng Đạo, TT Thích Nguyên Lộc, Ni Sư Diệu Trạm(Pháp), TT Thích ThôngTrí (Hòa Lan), TT Thích Hoằng Khai, ĐĐ Thích Viên Tịnh (Na Uy), TT Thích Tâm Huệ (Thụy Điển) v.v…Đó là chưa kể những vị đến từ Úc như: HT Thích Bảo Lạc, TT Thích Nguyên Tạng; đến từ Hoa Kỳ như: HT Thích Thái Siêu, HT Thích Nhật Huệ v.v…Trong đây cũng có Sư Cô Hạnh Khánh, Sư Cô Tuệ Đàm Hương (Đan Mạch) và sau nầy có Ni Trưởng TN Diệu Phước, Ni Sư Huệ Châu (Đức), Ni Sư Minh Liên Chùa Viên Thông (Texas, Hoa Kỳ) v.v…đến và đi nhiều như thế vì chư Tôn Đức đều thấy rõ rằng Chùa Thảo Đường phải cần có những vị lãnh đạo tinh thần trực tiếp hướng dẫn, và cuối cùng thì Sư Cô Tuệ Đàm Hương đã chính thức được GHPGVNTN Âu Châu công cử trụ trì ngôi chùa nầy sau đại lễ Khánh Thành vào năm 2017, dưới sự chứng minh của tôi và một số chư vị Tôn Túc khác.
Sở dĩ có được điều nầy vì lẽ những thành viên cũ trong Ban Chấp Hành của Hội đã từ nhiệm hết hai phần ba, chỉ còn lại một phần ba thì không thể làm việc được, mặc dầu số Phật tử ủng hộ chùa không giảm, nhưng những người chịu trách nhiệm trực tiếp thì ít người kham nổi, nên vào tháng 10 năm 2017 vừa qua, trong một phiên họp quan trọng của những người sáng lập Hội và những người có công về việc xây dựng nên chùa nầy, tại nhà Anh Kiệt và Cô Ngọc Anh tại Moscow, toàn thể những người hiện diện đã ký tên và đồng ý hiến dâng cơ sở Chùa Thảo Đường nầy cho GHPGVNTN Âu Châu. Đây chính là diệu kế và kể từ năm 2017 đến nay hầu như mọi Phật sự chính đều do Sư Cô Tuệ Đàm Hương đảm trách. Mọi người thở phào nhẹ nhõm khi những gánh nặng trên hai vai của mình có thể trút bớt đi được phần nào.
Năm nay 2018 tôi đã đến Saint- Petersburg mà ngày trước khi còn Cộng sản cai trị, người ta gọi nơi đây là Leningrad và ngay cả bây giờ cũng còn nhiều người quen gọi như thế. Đón tôi tại phi trường vào ngày 15.10.2018 nầy có Sư Cô Tuệ Đàm Hương và Cô Tâm Diệu Hương (đến từ Moscow), Anh Thiện Đồng Tâm và Cô Diệu Nghiêm (St. Petersburg). Trời hôm ấy thật đẹp. Cái đẹp của mùa Thu nơi xứ Bắc Âu thật không có lời văn và bút mực nào tả nổi, chỉ có thể cảm nhận khi người ta đến được đó để chiêm nghiệm mà thôi. Những vị nầy là những người vạch ra chương trình trong 10 ngày tôi ở tại đó và Moscow, hay nói đúng hơn là trong thời gian tôi ở Nga. Tối ngày 15.10 về nghỉ tại khách sạn của gia đình anh Tịnh, anh Kiên. Сả ngày hôm sau 16.10.2018, đoàn đi thăm Cung điện Konstantin. Cung điện này là một phần của Khu phức hợp Quốc Gia "Cung điện của các Hội nghị", là một quần thể cung điện và công viên tuyệt đẹp nằm trên bờ biển Vịnh Phần Lan, được phục hồi và cải tạo trong thế kỷ 19. Cung điện là dinh của Tổng thống Liên bang Nga, các hội nghị, đàm phán và diễn đàn quan trọng nhất thường diễn ra tại các sảnh chính của cung điện. Tại Konstantin Palace chúng tôi được xem phòng Hội Nghị của những nguyên thủ quốc gia trên thế giới về đây hội nghị, trong đó có Tổng thống Pháp, Thủ Tướng Angela Merkel của Đức, Thủ Tướng Tony Blair, Anh và đặc biệt là chúng tôi cũng đã đến thăm phòng gặp gỡ riêng giữa Tổng thống Putin và Tổng Thống Bush. Thành phố St. Petersburg này chính là nơi sinh trưởng của Tổng thống Putin đương nhiệm, nên bộ mặt của thành phố bây giờ quá đổi khác, không như năm 1994, khi Đh Thiện Mẫn dẫn tôi và Hạnh Bảo đi thăm những Cung điện mùa Hè, Cung điện mùa Đông tại đây. Chiều đó chúng tôi đến Chùa Tây Tạng để làm lễ Phật cho cộng đồng Phật tử Việt Nam tại đây.
Chùa nầy được xây dựng từ thời Nga Hoàng còn tại vị và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đã đến đây một vài lần vào đầu thế kỷ thứ 20.
Buổi tối ngày 25.10 tại Chánh điện chùa Thảo Đường, trong buổi thuyết pháp bằng tiếng Anh và tiếng Đức của một vị Thượng Tọa người Tích Lan, chúng tôi được biết là Hội Phật Giáo Đức cũng đã tặng cho Chùa Tây Tạng nầy tại St. Petersburg vào đầu thế kỷ thứ 20 một tượng Phật Thích Ca. Đây tuy cũ, nhưng cũng là một tin mới. Hôm đó tại Chánh điện Chùa Tây Tạng vừa được tân trang, chúng tôi tụng một bài Kinh Bát Nhã và sau đó giảng về Tam Quy Ngũ Giới cho khoảng 30 người Việt và Nga nghe.
Sáng ngày 17.10 chúng tôi đến xem Cung điện Pavlovsk của Pavel đệ nhất, cách xa St. Petersburg chừng 50 cây số về hướng Bắc. Đến đây để thấy cái vĩ đại của Nga Hoàng một thời như thế. Thật ra Cung điện Versailles, Cung điện Louvres của Pháp tôi đã nhiều lần đi xem, nhưng so ra với những cung điện của Nga Hoàng thì là một trời, một vực. Đến sáng sớm ngày 18.10 chúng tôi lên tàu hỏa tốc hành do Đức chế tạo, không khác với ICE tại Đức là bao, nhưng đẹp và tiện nghi hơn ở Đức rất nhiều. Từ St. Petersburg về Moscow độ dài hơn 700 cây số, nhưng tàu chạy chỉ 4 tiếng đồng hồ.
Ngày 19.10 rảnh rỗi và chúng tôi đã đến hãng may mặc của Đạo hữu Nhuận Hải để cúng cầu an và sái tịnh nhà mới. Ngày 20 và ngày 21.10 là hai ngày Thọ Bát Quan Trai cho 9 người Nga và gần 20 Phật tử Việt Nam. Lần nầy tôi giảng xong phần còn lại của Kinh A Di Đà. Trưa ngày 21.10, đoàn gồm 10 người đã lên phi trường để bay đến đảo Crimea, mà tiếng Nga đọc là KPЫM(Krym).
Từ Moscow ngồi máy bay gần 3 tiếng đồng hồ mới đến địa phương nầy. Trong khi tại Moscow nhiệt độ đã lạnh dần, nhưng tại đảo nầy nhiệt độ vẫn là 18 độ C. Gần Thổ Nhĩ Kỳ nên khí hậu, phong cảnh cũng như nhiệt độ rất đặc biệt. Tại đây ít lạnh vì có dãy núi phía Bắc bao bọc nên gió bấc khó thổi vào, và chính nơi đây cũng là chỗ nghỉ dưỡng lý tưởng của vua chúa thời Nga Hoàng cũng như Ông Gorbachev và Ông Putin sau nầy. Dưới thời Nữ Hoàng Ekaterina đệ nhị, bán đảo Crimea được sát nhập với đế quốc Nga (năm 1783).
Từ năm 1921 bán đảo này là một Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị thuộc Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. Năm 1954, theo đề nghị của Khrushchev, lúc đó là Bí thư thứ nhất Ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Liên xô, đã sát nhập bán đảo vào Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Ukraina. Sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991, Crimea vẫn ở Ukraine, giành quyền tự chủ với quyền có hiến pháp và chủ tịch riêng. Cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 năm 2014. Hầu hết những người Crimean đã tham gia và đã bỏ phiếu cho thống nhất đất nước với Nga, nên đã có Visa vào Nga rồi thì vào đảo nầy không cần xin Visa nữa.
Ngày 22 tháng 10 chúng tôi được nhân viên khách sạn Yalta Intourist đưa đi thăm Cung điện Đại Hãn Pakhchisaray (Mông Cổ), cung điện nằm sâu vào bên trong của đảo quốc. Đến đây rồi mới thấy người xưa thật là bản lãnh. Từ Mông Cổ mà sang tận đây để làm Vua một vùng thì quả thật điều nầy ít ai nghĩ tới. Bây giờ đến đây chỉ còn thấy một gốc cây dâu độ 500 tuổi là chứng nhân của lịch sử một thời và người xưa, kể cả cung tần mỹ nữ, vua chúa cũng chẳng còn sót lại, ngoại trừ những ngôi Lăng Mộ vẫn còn trơ gan cùng tuế nguyệt đấy thôi. Trong cung điện nầy có đặt bức tượng của nhà thơ Pushkin, cũng như huyền thoại về những giọt nước mắt của những Đại Hãn đẫm lệ, chảy ngang qua hai cánh hoa hồng cả hai màu đỏ trắng.
Thời nào cũng vậy, chuyện tình là một bài thơ dài vô tận, chưa ai chấm hết bao giờ, mà chỉ chấm phết để nghỉ ngơi trong kiếp luân hồi lục đạo mà thôi. Buổi chiều Đoàn của chúng tôi đi Sevastopol để thăm Hải Cảng quân sự của Nga đặt tại đây, nơi hạm đội biển đen hùng cứ qua nhiều giai đoạn của lịch sử. Đến đây rồi và tìm hiểu qua lịch sử tồn tại của Crimeaqua các thời kỳ, mới biết tại sao Nga muốn đảo quốc nầy phải trở lại với mình, vì địa thế nầy quá quan trọng về mặt quân sự.
Sáng ngày 23.10 chúng tôi đi thăm lâu đài Alupkyn do Công tước Vorontsov xây dựng trong vòng 20 năm, toàn bằng đá ong và đá vôi lấy từ núi bên cạnh ra. Nơi đây có một hoa viên rất đẹp, mọi người trầm trồ nhìn ngắm mãi không thôi. Phía trước cung điện có 3 cặp Sư Tử; cặp thì còn đang ngủ, cặp thì vừa thức giấc, cặpthì gầm gừ, nhăn răng trông thật hùng vĩ và lạ mắt. Sau khi dùng trưa tại một nhà hàng gần đó, chúng tôi đã lên tàu thủy để đi xem lâu đài Tổ Yến, được xây dựng trên đỉnh chót vót của mỏm đá nhô ra ngoài biển. Tương truyền rằng đây là công trình của một người Đức, giàu có như là một Ông Vua dầu hỏa bỏ tiền ra để xây dựng.
Sáng ngày 21.10.2018, đoàn chúng tôi được hướng dẫn viên du lịch cho đi tham quan một nơi thật là đặc biệt. Đó là Cung điện Livadia được vua Nikolai đệII xây dựng. Ở tầng một cung điện, chúng tôi được tham quan phòng họp Hội nghị Yalta (từ 04.02-11.02 năm 1945) của ba cường quốc Nga, Mỹ và Anh để quyết định số phận của Châu Âu và thế giới sau Đệ nhị thế chiến. Những phòng họp nầy rất đặc biệt, Tổng thống Mỹ Roosevelt đã đi cùng con gái đến đây để dự Hội Nghị và phái đoàn Mỹ đã trú ngụ tại cung điện nầy. Phía Anh do Thủ Tướng Churchill đi cùng với con gái và trú tại lâu đài Alupkyn. Còn phái đoàn của Nga do Stalin lãnh đạo thì ở tại Cung điện Yusupov, nhưng nay đã biến thành khách sạn, nên đoàn chúng tôi đã không thăm viếng được. Cũng tại đây, Mỹ đã lôi kéo được Liên xô vào chiến tranh với đế quốc Nhật. Sau đó vào tháng 8 năm 1945 thì hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Nagasaki và Hiroshima, khiến cho quân đội của Nhật Hoàng Hirohito phải đầu hàng Mỹ và Đức đã bị chia đôi đất nước vào năm 1949. Miền Đông Đức thuộc phe Cộng sản do Liên xô cai trị. Miền Tây Đức thuộc về thể chế Tự do nhưng do Mỹ, Anh và Pháp quản lý.
Sau này, năm 1955 Tây Đức gia nhập khối NATO, còn Đông Đức gia nhập khối Hiệp ước Varshava. Mãi cho đến ngày 9.11.1989 nước Đức sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Chủ nghĩa cộng sản không còn hiện hữu trên vùng đất nầy nữa.
Từ ngày thống nhất đất nước 3.10.1990 đến nay, Đức cũng như Nhật Bản, những nước bại trận và bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, đã đứng ngang hàng với Mỹ, Pháp, Anh rồi.
Trong khi đó Việt Nam chúng ta sau Hiệp định Paris năm 1973 và sau ngày 30.4.1975 hai miền Nam Bắc đã thông thương với nhau về địa lý, nhưng nền kinh tế của Việt Nam sau gần 45 năm so với các nước phát triển trên thế giới và ngay cả với các nước Đông Nam Á, như Thái Lan, Malaysia, Singapore, v.v.. vẫn còn kém xa và không biết bao giờ chúng ta mới có được đời sống thanh bình an lạc như người Nhật và người Đức trong hiện tại?
Ở tầng hai cung điện này, là nơi sinh hoạt và làm việc của vị vua cuối cùng của đế chế Nga – Nikolai đệ nhị.
Theo các nhà sử học, đối với gia đình của Hoàng đế Nga cuối cùng, cuộc sống ý nghĩa là quan trọng nhất. Hầu hết thời gian họ luôn ở trong vòng tròn gia đình, không thích thú vui thế tục, đặc biệt coi trọng hòa bình, thói quen, sức khỏe và hạnh phúc của người thân. Niềm đam mê của  Hoàng đế là đi săn, tham gia các cuộc thi cưỡi ngựa, trượt băng và chơi khúc côn cầu. Con cái phải tự làm các việc trong gia đình, kể cả thêu thùa và tắm nước lạnh, v.v... Những người giúp việc được sống cùng với gia đình nhà vua trên tầng 3 cung điện. Nhà vua sau này bị thoái vị, xin ra nước ngoài, nhưng không được và đã bị Cộng sản giết chết cả nhà vào đêm 16 rạng 17 tháng 7 năm1918 ở thành phố Ekaterinburg. Sự tàn bạo của một chế độ Cộng sản như vậy cảnh báo rằng, sớm hay muộn chế độ này cũng sẽ bị sụp đổ.
Chiều ngày 24.10, đoàn của chúng tôi trở lại Moscow để tối ngày 25.10 có một bữa tiệc chia tay nho nhỏ, cũng như đón tiếp vị khách Tăng Tích Lan đến từ Đức. Ngày hôm sau 26.10.2018 tôi lại lên đường để trở về lại Âu Châu. Tiếp đến hai ngày 27 và 28.10 làm lễ Thọ Bát Quan Trai cho Phật tử Việt Nam và người Pháp tại Chùa Vạn Hạnh tại Nantes, nơi Thượng Tọa Thích Nguyên Lộc Trụ Trì.
Hôm nay 29.10 trên đường bay về lại Hannover sau những ngày vắng bóng nơi chùa Viên Giác, chúng tôi có mấy tiếng đồng hồ chờ máy bay tại Paris, nên viết vội những dòng chữ nầy, ghi lại một thời đã qua là như vậy, vì để thời gian năm tháng trôi qua sẽ không còn nhớ lại được những chi tiết nữa.
Xin gửi đến quý Đạo hữu Phật tử xa gần tại Nga như: Khôi, Cô Thiện Niệm, Chị Tiến, Cô Lan Hương, Long , Anh Tịnh, Cô Hằng và đặc biệt là Sư Cô Tuệ Đàm Hương những lời niệm ân chân thành nhất. Rồi đây chúng ta sẽ có kẻ còn người mất, nhưng trong sự mất mát về hình hài thể xác đó, chúng ta còn lại đời sống tâm linh của người Phật Tử thật là miên viễn, dẫu cho thời gian và năm tháng có trôi qua đi chăng nữa thì tinh thần phụng sự Đạo ấy vẫn không bao giờ phai nhạt được.
Viết xong vào lúc 16:00 ngày 29 tháng 10 năm 2018
tại Phi trường Charles De Gaulle Paris Pháp Quốc.
Read More »

EVALUATING SOURCES FOR RELEVANCE AND RELIABILITY

5.4 EVALUATING SOURCES FOR RELEVANCE
AND RELIABILITY
When you start looking for sources, you’ll find more than you can use, so
you must quickly evaluate their usefulness. To do so use two criteria:
relevance and reliability.
5.4.1 Evaluating Sources for Relevance
If your source is a book, do this:
• Skim its index for your keywords, then skim the pages on which those words
occur.
• Skim the first and last paragraphs in chapters that use a lot of your keywords.
• Skim prologues, introductions, summary chapters, and so on.
• Skim the last chapter, especially the first and last two or three pages.
• If the source is a collection of articles, skim the editor’s introduction.
• Check the bibliography for titles relevant to your topic.
If your source is an e-book, you should still follow these steps, but you can
also search the whole text for your keywords.
If your source is an article, do this:
• Read the abstract, if it has one.
• Skim the introduction and conclusion; or if they are not marked off by
headings, skim the first six or seven paragraphs and the last four or five.
• Skim for section headings, and read the first and last paragraphs of those
sections.
• Check the bibliography for titles relevant to your topic.
If your source is online, do this:
• If it looks like a printed article, follow the steps for a journal article, and also
search on your keywords.
• Skim sections labeled “introduction,” “overview,” “summary,” or the like. If
there are none, look for a link labeled “About the Site” or something similar.
• If the site has a link labeled “Site Map” or “Index,” check it for your
keywords and skim the referenced pages.
• If the site has a “search” resource, type in your keywords.
This kind of speedy reading can guide your own writing and revision. If
you do not structure your paper so your readers can skim it quickly and see
the outlines of your argument, your paper has a problem, an issue we discuss
in chapters 12 and 13.
5.4.2 Evaluating Sources for Reliability
You can’t judge a source until you read it, but there are signs of its reliability:
1. Is the source published or posted online by a reputable press? Most
university presses are reliable, especially if you recognize the name of the
university. Some commercial presses, which are presses not associated with a
university, are reliable in some fields, such as Norton in literature, Ablex in
sciences, or West in law. Be skeptical of a commercial book that makes
sensational claims, even if its author has a PhD after his name. Be especially
careful about sources on hotly contested social issues such as stem-cell
research, gun control, and global warming. Many books and articles are
published by individuals or organizations driven by ideology. Libraries often
include them for the sake of coverage, but don’t assume they are reliable.
2. Was the book or article peer-reviewed? Most reputable presses and journals
ask experts to review a book or article before it is published; this is called peer
review. Essay collections published by university presses are often but not
always peer-reviewed; sometimes they are reviewed only by the named editor
or editors. Few commercial magazines use peer review. If a publication hasn’t
been peer-reviewed, be suspicious.
3. Is the author a reputable scholar? This is hard to answer if you are new to a
field. Most publications cite an author’s academic credentials; you can find
more with a search engine. Most established scholars are reliable, but be
cautious if the topic is a contested social issue such as gun control or abortion.
Even reputable scholars can have axes to grind, especially if their research is
financially supported by a special interest group. Go online to check out
anyone an author thanks for support, including foundations that supported her
work.
4. If the source is available only online, is it sponsored by a reputable
organization? A website is only as reliable as its sponsor. You can usually
trust one that is sponsored and maintained by a reputable organization. But if
the site has not been updated recently, it may have been abandoned and may
no longer be endorsed by its sponsor. Some sites supported by individuals are
reliable; most are not. Do a web search for the name of the sponsor to find out
more about it.
5. Is the source current? You must use up-to-date sources, but what counts as
current depends on the field. In computer science, a journal article can be outof-
date in months; in the social sciences, ten years pushes the limit.
Publications have a longer shelf life in the humanities: literary or art criticism,
for example, can remain relevant for decades and even centuries. In general, a
source that sets out a major position or theory that other researchers accept
will stay current longer than those that respond to or develop it. Assume that
most textbooks are not current. If you are unsure whether a source will be
considered current, take your lead from the practice of established researchers
in the field. Look at the dates of articles in the works cited lists of a few recent
books or articles in the field: a good rule of thumb is that you can cite works
as old as the older ones in that list (but to be safe, perhaps not as old as the
oldest). Try to find a standard edition of primary works such as novels, plays,
letters, and so on: it is usually not the most recent. Be sure that you consult the
most recent edition of a secondary or tertiary source: researchers often change
their views, even rejecting ones they espoused in earlier editions.
6. If the source is a book, does it have notes and a bibliography? If not, be
suspicious, because you have no way to follow up on anything that the source
claims.
7. If the source is a website, does it include bibliographical data? You cannot
judge the reliability of a site that does not indicate who sponsors and
maintains it, who wrote what’s posted there, and when it was posted or last
updated.
8. If the source is a website, does it approach its topic judiciously? Your
readers are unlikely to trust a site that engages in heated advocacy, attacks
those who disagree, makes wild claims, uses abusive language, or makes
errors of spelling, punctuation, and grammar.
The following criteria are particularly important for advanced students:
9. If the source is a book, has it been well reviewed? Many fields have indexes
to published reviews that tell you how others evaluate a source (see our
“Appendix: Bibliographic Resources”).
10. Has the source been frequently cited by others? You can roughly estimate
how influential a source is by how often others cite it. Citation indexing makes
this easy to do (see 5.2.2). If you find that a source is cited repeatedly by other
scholars, you can infer that experts in the field regard it as reliable and
significant. Such sources are said to have a high “impact factor.” You should
keep an eye out for such sources and use them to orient yourself in your field
of research.
Whom Can You Trust?
The highly respected Journal of the American Medical Association appointed a
committee to review articles published by reputable journals for reliability.
Even though those papers had been approved by experts in the field, the
reviewers reported that “statistical and methodological errors were common”
(“When Peer Review Produces Unsound Science,” New York Times, June 11,
2002, p. D6). In the face of such revelations, some just dismiss what scientists
publish: if the reviewers of scientific articles can’t guarantee reliable data, what
is a mere layperson to do? You do what we all do—the best you can: read
critically, and when you report data, do so as accurately as you can. We’ll
return to this question in chapter 8.
Error is bad, but dishonesty is worse. One of Booth’s students got a summer
job with a drug company and was assigned to go through stacks of doctors’
answers to questionnaires and shred certain ones until nine out of ten of those
left endorsed the company’s product. These bogus data were then used to
“prove” that the product worked. The student quit in disgust and was, no doubt,
replaced by someone less ethical.
These indicators do not guarantee reliability. Reviewers sometimes
recommend that a reputable press publish something weakly argued or with
thin data because other aspects of its argument are too important to miss—we
have each done so. So don’t assume that you can read uncritically just
because a report is written by a reputable researcher and published by a
reputable press.
Read More »