"Đơn Giản Thôi!"


Mình có người bà con. Thỉnh thoảng khi tết sắp về mình có hỏi năm nay chuẩn bị đón tết thế nào? "Đơn giản thôi," người ấy trả lời. Điệp khúc "đơn giản thôi" này mình nghe người ấy nói mãi bao nhiêu chục năm. Gđ người này cũng chả đói khổ gì. Mình tự hỏi chả biết đến bao giờ người ấy mới tổ chức cho gđ của người này đón tết cho hoành tráng?
Trường hợp nữa là mình có quen một Phật Tử. Cô có lần mời mình về cúng cho ba cô ngày giỗ. Rồi đi nước ngoài nên mình chỉ thỉnh thoảng hỏi chuyện sắp đến giỗ ba rồi gd cô chuẩn bị đám giỗ thế nào? "Đơn giản thôi," cô ấy trả lời.
Ba cô đã qua đời hơn 2 thập kỉ rồi. Mình nghe điệp khúc "đơn giản thôi" này cũng đã khá nhiều năm. Cuộc sống của cô cũng không đến nỗi nghèo đói gì. Tự hỏi chả biết đến bao giờ cô mới làm đám giỗ ba cô cho linh đình?
Read More »

2 Đạo Phật ở Mỹ

2 Đạo Phật (2 Buddhisms) là khái niệm mô tả những người tham dự vào Phật Giáo ở Mỹ, cũng như ở Tây Phương. Chủng tộc của người theo Phật Giáo xứ này là:
1. Người Á Châu nhập cư và tị nạn (Asian immigrants and refugees). Nhiều người từ Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn, Việt Nam, Thái Lan,...đã qua Mỹ và đem theo Đạo Phật.
2. Người da trắng theo Phật Giáo (white converts). Phần lớn những người ở Mỹ hay Tây Phương theo Phật Giáo là người da trắng có học thức, tất nhiên là kinh tế cũng thuộc hàng trung lưu.
Khái niệm hai Phật Giáo này mô tả khá chính xác chủng tộc của người theo Đạo Phật trong vòng vài thập kỉ trở lại đây.
Tuy vậy, theo thời gian, khái niệm này dần nhạt đi vì đã có một số chủng tộc khác theo Phật Giáo gồm người nói tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ cũng như người da màu gốc Phi.
Tuy vậy, khái niệm hai Phật Giáo vẫn có thể dùng được vì trong tương lai vẫn luôn luôn có hai nhóm chủng tộc chính này góp phần tạo nên bộ mặt Phật Giáo Hoa Kỳ và Tây Phương.
Read More »

Ích lợi và Thách Thức Khi Học với Giáo Sư Giỏi.

Mấy năm qua, mình cũng có tìm đăng kí học với một số giáo sư giỏi. Ích lợi thứ nhất là được học với người giỏi thì mình dễ giỏi lên, được học hỏi những điều sâu xa u uẩn mà những người rất giỏi mới có thể truyền đạt lại được từ tuyến đầu của chân trời tri thức. Lợi ích nữa là khi được những gs này viết thư giới thiệu thì lá thư ấy có trọng lượng cao hơn. Nhìn chung là như thế.
Thách thức là giáo sư giỏi thì nhiều người học đăng kí nên gs ấy không chăm lo cho mình cẩn trọng bằng gs thường. Một khó khăn nữa là gs giỏi hay yêu cầu học rất nhiều với một số tài liệu rất khó. Cách chấm điểm cũng khắt khe nên học rất cực mà thi cũng rất khổ sở.
Mình xin kể 4 ví dụ học với gs giỏi mà nhìn chung thì khó khăn nhỉnh hơn thuận lợi.
Gs thứ nhất Mario D'Amato, lấy tiến sĩ Phật Học ở the University of Chicago, một trường hàng đầu nhân loại. Tài liệu ông ấy bắt mua đã nhiều, có lớp 4 cuốn sách, có lớp 6 cuốn sách; tài liệu ông ấy cung cấp qua một phần mềm cũng rất nhiều. Có một số tài liệu là luận án tiến sĩ ở Columbia nên đọc rất khó. Mình tổng cộng học 3 lớp với gs này và thấy rằng lớp ông dạy luôn luôn đông sv. Khi nào cũng cỡ 25--một con số đông nhất trong một trường tư Rollins College. Mình đã nhận con điểm B+ duy nhất trong một lớp học của ông ấy: áp lực học tập và thi cử rất cao.
Gs thứ hai, Todd Grench, lấy tiến sĩ ở Columbia university, cũng trường hàng đầu nhân loại. Gs này dạy về Tôn Giáo. Cả hai gs đều rất vui vẻ hài hước nhưng học rất nặng. Mình nhớ có một số tài liệu đọc vào gần như chả hiểu gì, thí dụ cuốn Gender Trouble của Judith Butler. Mình đã gần như khóc khi đọc các tài liệu ấy. Ấy vậy mà gần như tuần nào ông ấy cũng bắt thi 5 phút bằng viết ra giấy. Mục đích kiểm tra mình có đọc bài trước khi lên lớp, có hiểu và nhớ không? Học lớp ấy cảm thấy áp lực và khủng hoảng tinh thần lắm. May mà cả hai lớp học với ông ấy cuối cùng cũng qua và đạt kết quả cao. Thở phù như trút được gánh nặng. Thực ra thì cả hai lớp của ông ấy mình đều bảo ông ấy gửi tài liệu trước khi học kì bắt đầu và mình đã đọc trước một số rồi để khi học chính thức thì đỡ áp lực...
Gs thứ 3 tên Matilde Mésavage. Bà lấy tiến sĩ ở Yale, cũng là trường hàng đầu thế giới. Mình học tiếng Pháp với bà. Một tuần đi học 5 ngày! Khối lượng từ vựng quá nhiều và thi cử thì thường xuyên liên tục. Mình thường muốn học môn gì mà có thể lấy điểm cao nhất, điểm A. Nếu môn ấy dù quan trọng cho tương lai mà nhắm không được điểm A thì mình cũng chẳng học. Bởi vì đơn giản mình học cũng có phần từ học bổng mà học bổng thì yêu cầu vài tiêu chí trong đó có GPA cao. May trường mình cho học thử 2 tuần. Thế là sau 2 tuần mình đổi lớp khác, bỏ lớp này. Đây là lớp duy nhất mình phải bỏ để đổi lớp khác. Nếu cố học thì không biết mình sẽ được điểm gì nhưng chắc chắn là chả được điểm A đâu. Nói chung là 2 tuần khủng hoảng.
Gs thứ 4, John Houston, lấy tiến sĩ ở New York university, một trường trong top 20 thế giới. Anh bạn mình đã bảo lớp Tâm Lý Học Xã Hội với gs ấy anh đã nhận điểm B dù trước đó anh ấy hoàn toàn điểm A. Lớp ấy khó lắm. Mình cũng ngán nhưng lại thích vì chủ đề này nó bổ túc cho Tâm Lý Học Phật Giáo vốn chỉ là tâm lý học cá nhân mà thôi. Thế rồi mình có gặp gs này và bảo rằng nghe nói ông dạy sv kêu khó lắm, được điểm thấp lắm? Ông có cách nào nâng đỡ sv quốc tế như tôi không chứ thi cử mà không cho dở sách thì sv quốc tế đua đâu dễ với dân bản xứ. Ông ấy trấn an là ổn thôi, ổn thôi. Thế ồi mình cũng đăng kí dù rằng gs Stacey Dunn đã không gợi ý mình học lớp này mà chỉ gợi ý học những lớp khác.Sau này mình mới hiểu là ông gs này dạy khó quá...Lớp học rất hay và hấp dẫn. Đây là một trong vài môn mình thích nhất. Nhưng việc học thì rất mệt mỏi. Ông ấy toàn bắt thi trên lớp mà không cho mở sách. Tài liệu là cuốn sách to dày khổ A4 hơn 400 trang. Ông ấy chỉ miễn cho 1 chương thôi. Còn lại là phải thuộc lòng 370 trang, một việc rất mệt mỏi với sv quốc tế. Vả lại trong một học kì thì còn học mấy môn khác nữa chứ đâu phải học một môn này. Kì thi cuối kì là ông ấy bắt học hết cuốn sách thi từ đầu tới cuối không chừa. Mình đã cố hết sức nhưng cuối cùng được điểm A-. Nhiều năm học mình chỉ có 2 điểm A- là lớp này và một lớp học kì 2 của năm đầu tiên tự nhiên vào lớp mà học với toàn là sv năm cuối. Lớp này có dùng những công thức mình chưa học đến nên đành chịu.
Nhìn chung, mình thấy hứng thú và lợi lạc khi học với gs giỏi nhưng cái giá phải trả là như đã nói quá áp lực và hay bị khủng hoảng tinh thần. Câu hỏi đặt ra là có đáng để mình như thế hay không?



Read More »

Chọn Làm Vợ Vua hay Vợ Tướng?


Khi tỉ lệ sinh viên/giáo sư thấp, lớp học ấy nhìn chung chất lượng cao hơn vì giáo sư có thời gian chăm sóc sinh viên.
Mình thường muốn thử, tìm tòi, khám phá những nẻo giáo dục khác nhau. Có thời mình đã từng học một trường có tiếng ở Việt Nam là trường Bách Khoa (thuộc Đại học Quốc Gia) ở quận 10 Sài Gòn. Mình trân quý trường này. Tuy vậy số lượng sinh viên trên giáo sư cao. Có lớp 30 sv, có lớp cả trăm. GS thường chả biết tên sv. Rồi khi tu tập thì mình học đạo với pháp môn Làng Mai, mình rất trân quý thời gian này. Thầy mình rất nổi tiếng nhưng đệ tử quá đông nên chả chăm sóc trực tiếp được, nói gì kèm riêng. Làm vợ vua thì nổi tiếng hơn nhưng ông vua nhiều vợ quá nên chả biết ông ấy có biết tên bà vợ lẻ nào đó trong cung cấm hay không? Cung oán ngâm khúc...
Do trải qua kinh nghiệm này nên mình muốn học trong những lớp nhỏ, mà giáo sư kèm sinh viên kĩ. Ở Mỹ có những trường Đại học mà mỗi lớp có đến 100, 300 hay thậm chí cả ngàn sv. Mình chọn trường có tỉ lệ sv/gs thấp. Làm vợ tướng thì không nổi tiếng bằng nhưng ông tướng ít vợ nên ông ấy nhớ tên và chăm sóc thường xuyên hơn. Thành ra, đã nhiều năm nay mình luôn luôn học trong những lớp không đến 30 sinh viên. Khá nhiều lớp chỉ 10, có những lớp 5 hay 7. Dưới đây là ảnh một lớp mình đang học có 4 sv và một gs. Học kì này mình học 4 lớp. Lớp thứ 2 có 20-25 sv, lớp thứ 3 có 15-20 sv, và lớp cuối có 3 sv.
Trong Giáo Dục Khai Phóng, nhiều bài thi kiểu open-ended (không biết dịch chữ gì, đại khái là câu hỏi mà viết trả lời không có đúng hay sai), rất ít multiple choices (trắc nghiệm). Lợi thế của thi trắc nghiệm là giáo viên khoẻ. Họ chỉ việc phát bài thi và chấm thi có thể bằng máy hay thuê sinh viên chấm hay đục lỗ bảng câu trả lời cứ thế tính điểm. Trắc nghiệm thường có một câu đúng và các câu kia sai. Làm mãi như thế thì tâm thức người học hay đặt câu hỏi cái gì đúng, cái gì sai. Câu hỏi ấy hằn sâu trong đầu như cây đinh cắm vào gỗ. Trong khi cuộc đời này vốn rất phức tạp. Phần lớn mình không tìm được câu trả lời đúng hay sai. Thí dụ một bài thi kiểu open-ended là có nên du học hay không? Câu hỏi này không có đúng sai mà chỉ rèn kĩ năng lý luận phân tích tổng hợp...Bảo có thì chứng minh nó, trình bày nó và trình bày quan điểm đối lập rồi phủ nhận quan điểm đối lập ấy. Cuối cùng là kết luận du học là đúng. Ngược lại bảo không nên du học cũng được. Chỉ việc làm tương tự như vậy. Nhược điểm của kiểu thi này là tỉ lệ sv/gs phải thấp vì gs phải trực tiếp đọc bài chứ ko nhờ máy được, không thuê sv chấm bài được. GS mệt nhưng gs hiểu khả năng của từng sv và gợi ý những hướng phát triển năng lực hay khắc phục điểm yếu từng sv. Việc truyền thông thường xuyên với gs là lợi thế rất lớn. Hơn nữa, vì viết nhiều nên những kĩ năng ấy phát triển hơn ở sv. Đây là lợi thế của các trường theo triết lý Giáo Dục Khai Phóng nên dù những trường ấy nhỏ và không nhiều gs Nobel nhưng học phí cũng mắc chả kém, có thể cao hơn những Đại học nổi tiếng nhất.
Các trường liberal arts ấy thường tên là college, còn trường nổi tiếng hay có tên là university.
Read More »

Có Tự Do Ý Chí Hay Không?

Mấy năm trước mình có đăng kí học môn Tâm Lý Học Hành Vi (Behavioral Psychology, hay còn gọi là chủ nghĩa hành vi, Behaviorism). Lý do đăng kí học môn này là nó có quan niệm ngược với Phật Giáo nâng cao. Học vấn mình có nâng cao hay đào sâu hay không còn phụ thuộc vào việc mình có chịu tìm hiểu những trường phái, những quan điểm trái chiều với trường phái mình đang đi.
Trong PG thì loài người có tự do ý chí (free will), điều này giống với Humanistic Psychology (không biết dịch là gì, Tâm Lý Học Nhân Bản hay Tâm Lý Học Loài Người?). Điều này trái với Tâm Lý Học Hành Vi (ảnh là sách mình học) vì trường phái này cho rằng loài người không có tự do ý chí. Con người chỉ phản ứng lại các kích thích của môi trường hay đại loại như vậy mà thôi--gần như là thuyết định mệnh (determinism).
2 trường phái khác nhau, vậy có một bên đúng một bên sai? Không hẳn. Mình thì vẫn tin vào Phật Giáo rằng loài người có tự do ý chí. Tuy vậy, khả năng để một cá nhân có tự do ý chí rất thấp. Theo Phật Giáo thì tự do ý chí bắt đầu bằng niệm, định, tuệ. Mà người thường thì ít chế tác ba nguồn năng lượng này. Nên phần lớn trong cuộc sống loài người không có tự do ý chí. Hiểu như thế thì thấy chủ nghĩa hành vi không sai. Thực vậy, TLHHV thuộc về Tâm Lý Học, một bộ môn khoa học xã hội mà thuộc KHXH thì để chứng minh cho nhận định nào là đúng thì phải đúng cỡ 95-99%. Như đã nói, cá nhân bình thường không có tự do ý chí nên điều này có thể đúng với khả năng hơn 95% nhân loại. Nó có nghĩa là nhìn vấn đề theo Phật Giáo và theo Khoa Học Xã Hội thì cả hai trường phái tuy ngược nhau, một bên cho rằng có tự do ý chí, một bên cho không, nhưng cả hai vẫn đúng như thường! Đây là một nghịch lý mà nếu không nắm vững thì với tư duy kiểu tôi đúng/anh sai thì sẽ không hiểu được vì sao cả hai đều đúng.

Image may contain: text

Trường Phái Tâm Lý Học Hành Vi (TLHHV) này đã phát triển lên mạnh mẽ được ứng dụng vào công nghiệp. Một công nhân vào nhà máy làm theo một dây chuyền thì người chủ quản lý chả quan tâm đến tư tưởng gã ta, cũng chả quan tâm đến ngôn ngữ của chàng ấy trong lúc làm việc riêng mà nhà quản lý chỉ quan tâm đến hành vi người này: có làm nhanh hay không? Có đủ chất lượng hay không? Đừng nghe gã nói, hãy nhìn gã làm! Rồi nhà quản lý tìm cách nâng cao hành vi của gã cho sản lượng tăng lên mà rủi ro giảm xuống...
Read More »

Số Phận Hẩm Hiu của Kinh A Hàm

Kinh A Hàm là toàn bộ giáo lý Phật Thích Ca Mâu Ni dạy. Giá trị của những bộ kinh này là vô lượng. Ấy vậy, địa vị kinh này chưa được đánh giá đúng mức, chưa được phổ biến.
Song song với kinh A Hàm bằng chữ Hán, Phật Giáo còn có kinh Nikayas coi như là tương đương với kinh A Hàm. Có khác là kinh Nikayas thì có Tiểu Bộ mà số lượng thì nhiều gần bằng với 4 bộ kinh Nikayas gồm Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi Bộ, và Tương Ưng Bộ. Bên A Hàm thì quý ngài cho rằng những kinh giống với Tiểu Bộ là do người sau soạn ra nên không chấp nhận đưa vào hệ thống A Hàm. Điều này đã được giới nghiên cứu chấp nhận. Thành ra, kinh A Hàm gồm 4 bộ: Trường A Hàm (tương đương Trường Bộ trong Nikayas), Trung A Hàm (tương đương Trung Bộ), Tăng Nhất A Hàm (...Tăng Chi), và Tạp A Hàm (...Tương Ưng).
Kinh Nikayas được đón nhận rộng rãi trong thế giới Nam Tông. Thực ra, Nam Tông chỉ chấp nhận Nikayas là Kinh do Phật dạy. Khá nhiều người Nam Tông không thiết gì học kinh Bắc Tông Hán truyền. Một số người Nam Tông cho rằng kinh Bắc Tông là do người đời sau đưa vào hay do Bà La Môn ngoại đạo đưa vào nên họ cũng chả học kinh A Hàm.
Trên thế giới thì vì số lượng kinh Nikayas không quá nhiều nên đã được dịch ra tiếng Anh vài bản. Khá nhiều người theo Phật Giáo Tây Phương chỉ căn cứ vào kinh Nikayas coi như khuôn vàng thước ngọc lời Phật dạy. Họ không muốn học các kinh điển khác, trong đó có cả kinh A Hàm.
Bên Bắc Tông thì vẫn thừa nhận kinh A Hàm nhưng cho rằng đây là kinh Phật dạy thời đầu cho hàng tiểu thừa thanh văn nên người Bắc Tông thích đi về một số kinh mà họ cho là cao hơn như kinh Bát Nhã, Kim Cang, Hoa Nghiêm...
Trên thế giới thì vì kinh Bắc Tông có số lượng quá đồ sộ nên chưa dịch nổi ra nhiều ngôn ngữ Tây Phương. Vì nhiều người dân Á Đông chú trọng các kinh Đại Thừa nên các kinh này được dịch ra trước. Kinh Pháp Hoa đã có vài bản dịch Anh ngữ là ví dụ (một số người Bắc Tông cho rằng Kinh Pháp Hoa là vua của các kinh). Thế nên họ để kinh A Hàm ở địa vị ưu tiên phụ. Vì thế đến nay vẫn chưa có đủ bản dịch Anh ngữ kinh A Hàm từ dịch giả hàn lâm (có bằng tiến sĩ trong chuyên ngành phù hợp).
Một số người Nam Tông cho rằng kinh A Hàm được dịch Hán văn ra trễ hơn so với kinh Nikayas bằng ngôn ngữ Pali. Hơn nữa, Kinh Nikayas dùng Pali là ngôn ngữ Phật trong khi A Hàm đã bị dịch ra nhiều ngôn ngữ khác mới dịch ra chữ Hán nên tam sao thất bản. Vì thế tuy A Hàm giống với Nikayas nhưng mình nên học Nikayas.
Điều này không đúng.
Lí do thứ nhất là Kinh A Hàm dịch ra chữ Hán không trễ hơn kinh Nikayas dịch ra Pali, nếu không muốn nói là sớm hơn một chút. Năm 397, thầy Tăng Già Đề Bà (Sanghadeva) dịch các kinh Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm. Sau đó đến năm 413 thì hai thầy Phật Đà Gia Xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm (Buddhasmrti) dịch kinh Trường A Hàm, và đến năm 435 thầy Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) mới dịch kinh Tạp A Hàm. Tức những bộ Kinh A Hàm được dịch từ thế kỉ 4 và 5 sau TL.
Trong khi đó, Kinh Nikayas được ngài Phật Âm (Buddhaghosa) dịch ra trong thế kỉ 5 sau TL. Mình không biết năm chính xác những bộ kinh Nikayas lần lượt được dịch nhưng vẫn đủ kết luận là kinh A Hàm được dịch sớm hơn một chút và bằng kinh Nikayas.
Còn về việc dịch ra nhiều ngôn ngữ, tam sao thất bản thì chưa chắc. Bên Nam Tông cho rằng kinh Nikayas được truyền từ Phật dùng tiếng Pali đến khi ghi ra giấy. Điều này không đúng. Phật không dùng tiếng Pali mà dùng tiếng Ma Kiệt Đà (Magādhi, gần giống Pali nhưng không phải). Rồi kinh điển có thể được dịch ra một đôi ngôn ngữ rồi mới vượt biển qua Sri Lanka dịch ra ngôn ngữ Sinhala. Sau đó mới viết ra giấy tk 1 trước TL. Rồi đến tk 5 mới dịch ra Pali. Tức là từ Phật đến khi ra kinh Nikayas ngôn ngữ Pali đã chuyển qua vài ngôn ngữ rồi.
Tương tự thế, Phật dùng tiếng Ma Kiệt Đà dạy rồi có thể dịch ra một đôi ngôn ngữ rồi ra tiếng Sanskrit rồi viết xuống giấy cũng tk 1 trước TL. Sau đó đến tk 4 và 5 dịch ra chữ Hán. Tức là độ tam sao thất bản hai bên chả kém gì nhau.

Ngài Hoà Thượng Thanh Từ đã dịch 4 bộ A Hàm, với sự hiệu đính của Hoà Thượng Thiện Siêu, từ Hán ra Việt nhưng dòng tu Trúc Lâm của ngài nhiều người cho rằng các kinh Đại Thừa quan trọng hơn và ngữ lục các tổ rất quan trọng nên quý ngài cũng ít chú trọng kinh A Hàm. Ngài Tuệ Sĩ và Đức Thắng có dịch A Hàm lần nữa gần đây. Kinh Nikayas do ngài Minh Châu dịch từ Pali ra Việt.
Trong khi kinh Nikayas trở nên rất phổ biến ở Á Châu lẫn Tây Phương thì kinh A Hàm, khá hẩm hiu, chả được nhiều người học hỏi.
Trong phòng học, mình để kinh Nikayas theo chiều ngang còn kinh A Hàm theo chiều dọc. Ở giữa là Tiểu Bộ Kinh, cao nhất.
Read More »

Thẩm Quyền

Authority là thuật ngữ mà trong tôn giáo hay Phật Giáo có dùng, tạm dịch là thẩm quyền?
Để tăng authority, Phật Giáo Bắc Tông đã bảo chúng tôi là dòng truyền thừa nguyên chất tâm linh từ Đức Phật Thích Ca đến mấy chục vị tổ rồi mới đến Bồ Đề Đạt Ma rồi đến nhị tổ Huệ Khả, tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ tổ Hoàng Nhẫn rồi lục tổ thì có trường phái là Huệ Năng, có trường phái là Thần Tú. Chuyện tạo ra một liên kết trực tiếp đến từ Đức Phật này làm tăng thêm tính uy lực của dòng truyền thừa này để thu hút tín đồ đông đảo. Dòng truyền thừa y bát này không có thật mà chỉ là sản phẩm của sáng tạo của nhiều người một vài thế hệ sau Huệ Năng/Thần Tú. Đây là chuyện của Phật Giáo Bắc Tông (Đại Thừa).
Phật Giáo Nam Tông cũng tự tạo ra authority không kém đâu. Bảo là Phật Giáo Nguyên Thuỷ--Theravada nhưng cũng chẳng nguyên thuỷ được bao nhiêu. Một số người bảo Phật thì nói tiếng Pali và truyền xuống rồi Phật Giáo phân phái thành 2 là Đại Chúng Bộ và chúng tôi, Theravada. Đây là kinh Nikayas bằng ngôn ngữ Pali mà Phật dạy nên dòng truyền thừa của chúng tôi không đứt đoạn mà liền mạch. Thực ra không phải thế.
Phật không nói tiếng Pali mà dùng tiếng Ma Kiệt Đà, một ngôn ngữ gần với Pali nhưng không phải Pali. Kinh Nikayas viết bằng tiếng Pali thực ra đã mất cả ngàn năm sau thời Phật cơ. Hơn thế nữa, cái mà gọi là Theravada thực ra không phải là một trong 2 nhánh tách ra từ Phật Giáo Nguyên Thuỷ đâu. Theravada thuộc dòng truyền thừa từ một bộ phái gọi là Đồng Diệp (Tamrasatiyah). Bộ phái sinh ra bộ phái này có tên là Phân Biệt Thuyết (Vibhajyavada). Bộ phái sinh ra Phân Biệt Thuyết là Thượng Toạ Bộ (Sthaviravada), là một trong hai bộ phái (cùng với Đại Chúng Bộ--Mahasanghika) đã tách ra sau 140 năm từ thời Phật nhập niết bàn. Ảnh là biểu đồ 18 tông phái. Từ Đồng Diệp bộ, đã cách Phật hơn 350 năm, mới truyền qua Sri Lanka và kinh điển được lưu truyền bằng vài ngôn ngữ bản địa rồi viết xuống Lá Bối vào khoảng thế kỉ thứ 1 trước Tây Lịch. Có nhiều nhánh phái viết xuống chứ không phải chỉ một. Rồi đến tk 5 sau tây lịch mới dịch sang Pali do ngài Phật Âm nhưng việc dịch này chỉ phản ánh quan điểm của nhánh phái Mahavihara mà ngài Phật Âm đang theo nên không dịch ra Pali kinh điển của nhánh song song tồn tại.
Theo quan điểm của một số người Nam Tông thì dòng truyền thiền của họ là không đứt đoạn. Nhưng theo quan điểm chung của giới nghiên cứu thì các dòng thiền quán của Thái hay Miến thực ra là phục hồi lại chứ dòng truyền thiền của họ đã đứt quãng từ lâu.
Read More »

Ứng Dụng Công Nghệ Vào Tổ Chức Tu Học

Hồi trước mình ở trong một tu viện mà mỗi tuần họp đến khoảng 5 lần. Mỗi lần một tiếng rưỡi đồng hồ nhưng tập trung trước cũng như đi về nữa là mất tối thiểu 2 tiếng. Mình thấy rất tốn thời gian. Một tháng tốn 20 lần họp. Một năm 200 buổi họp. Nhiều quá.
Khi mình ở một chùa khác, cách đây vài năm, thì chả họp gì cả. Mọi quyết định nằm trong tay trụ trì.
Hai mô hình khác nhau nhiều. Mô hình đầu tạo mệt mỏi vì quá nhiều buổi họp mà khối lượng công việc giải quyết không bao nhiêu; mô hình sau thì cũng có phần ức chế vì nó như một cộng đồng được lãnh đạo bởi độc tài toàn trị mini.
Hiện mình ở kí túc xá với người nước ngoài. Cả học kì có 1 buổi họp mà thôi. Nhưng mình thấy thoải mái và công việc rất suông sẻ. Lý do là mình thấy có sử dụng một phần mềm gọi là Slack (ảnh). Phần mềm này mình có thể tạo ra nhiều mục, ví dụ mục đậu xe, mục thức ăn... Mỗi thành viên đều có tài khoản này để đăng nhập và biết những mục mà ktx cần giải quyết, cũng như lên tiếng khi thấy điều gì cần giải quyết. Thành thử ra không cần phải có cuộc họp mà mọi việc diễn ra khá hanh thông. Tương tác nhau khá kịp thời.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức rất quan trọng. Nó tránh được sự tốn thời gian cả trăm buổi họp một năm. Nó cũng tránh những ức chế không cần thiết của mô hình một trụ trì nắm quyền vĩnh cửu. Tất nhiên, mô hình này cũng chỉ là một mô hình tổ chức thôi với những ưu và khuyết của nó.

Xin nói thêm, trong một lớp học về Tôn Giáo và Công Nghệ thì Đạo Phật được xếp vào dạng sợ công nghệ--tức kém tiếp cận công nghệ (Đạo Hồi thì dạng trung bình trong khi Ky Tô Giáo thì vồ vập công nghệ).
Read More »

Có ma hay không?


Cuộc sống có những câu hỏi rất dễ nhưng trả lời rất khó. Thí dụ vũ trụ nặng mấy tấn?
Cuộc sống cũng có những câu hỏi dễ nhưng trả lời thì gây tranh cãi vì không có câu trả lời nào hoàn toàn hợp lý hay nói cách khác có thể có hơn một câu trả lời, thậm chí ngược nhau, mà vẫn không sai. Thí dụ câu hỏi Phật Giáo có phải là tôn giáo không? Người ta trả lời rằng có, có người bảo không, lại có người bảo có vẻ có. Chả có câu trả lời nào sai cả.
Gần đây một vài bạn hỏi mình có ma hay không? Câu trả lời này là còn tuỳ. Có thể có mà có thể không?
Trong Phật Giáo có ma. Đây là theo quan niệm truyền thống Phật Giáo có ở trong kinh điển. Hơn 90% người theo Phật tin là có ma.
Thế nếu người không theo Phật thì sao?
Thật ra khoa học chưa chứng minh được là có ma. Thế nên xã hội (không tôn giáo/Phật Giáo) được xây dựng dựa trên tiên đề là không có ma.
Điều này cũng đúng với câu hỏi có Đấng Sáng Thế hay không? Một số tín đồ trong một số tôn giáo, thí dụ Hồi Giáo, bảo có. Nhưng khoa học không chứng minh có hay không có Thượng Đế được nên xã hội phi tôn giáo dựa trên tiên đề là không có đấng ấy.
Nếu bạn tin có ma: bạn có quyền tin là có ma. Nếu bạn tin không có ma: bạn có quyền tin là không có ma. Miễn bạn hành xử đúng theo pháp luật.

 Pháp luật là quan trọng ở đây. Tức là mình sẽ bị trừng phạt bởi pháp luật nếu mình có làm điều gì sai. Pháp luật căn cứ vào hành vi, ngôn ngữ, và có thể ý định của mình để trừng phạt mình. Pháp luật không bị thuyết phục bởi quan niệm rằng do có con ma nó nhập vào tôi nên tôi ăn trộm nhà anh. Pháp luật cũng không bị thuyết phục bởi lý giải rằng đấng nào đó sinh ra tôi với định mệnh phải đánh anh. Pháp luật dựa trên tiên đề những điều này không tồn tại. Tiên đề là một khẳng định mà không cần chứng minh và xây dựng những ý niệm, ý tưởng khác dựa trên tiên đề ấy là đúng. Thí dụ tiên đề từ một điểm nằm ngoài một đường thẳng có một và chỉ một đường thẳng đi qua điểm đó và song song với đường thẳng kia. Cái này mình chấp nhận nó là tiên đề, là đúng. Mình không chứng minh được (có thể lên hình học không gian thì tiên đề này nó sai).
Read More »