Cải Đạo ở Giới Trí Thức Tây Phương

1. Mario D'Amato from Catholicism to Buddhism, PhD at the University of Chicago, teaching at Rollins College.
2. Paul Williams, PhD at in Buddhist Studies Oxford, from Buddhism to Catholicism:
http://whyimcatholic.com/index.php/conversion-stories/buddhist-converts/65-buddhist-convert-paul-williams

https://www.wiseattention.org/blog/2012/06/01/when-a-buddhist-becomes-a-catholic-reflections-on-paul-williams-conversion/


3. Paul F. Knitter, PhD at the University of Marburg, Germany, teaching at Union Theological Seminary, still Christian but adds Buddhist:  https://www.ncronline.org/news/double-belonging-buddhism-and-christian-faith


Read More »

Giới Thiệu Vài Cuốn về Cuộc Đời Đức Phật và Tổng Quan Phật Giáo

Có Phật Tử người Việt hỏi muốn học Phật Giáo mà không biết bắt đầu cuốn sách nào.
Mình sống nước ngoài cũng lâu năm rồi nên thực sự không rành về nhiều sách Phật Giáo bằng tiếng Việt. Mình không thấy sách nào đủ hàn lâm và cập nhật để học tập (có thể có mà mình không biết).
Theo chuẩn của Tây Phương thì tài liệu hàn lâm có 2 đặc điểm. Thứ nhất là được viết bởi một tác giả hàn lâm, tức có bằng tiến sĩ về Phật Giáo (ở một trường khá uy tín thế giới, thí dụ trong top 300) hay chuyên ngành liên quan. Thứ hai là tài liệu ấy nên được cập nhật. Trong lĩnh vực Phật Giáo, tài liệu ít được cập nhật nên có thể châm chước học tài liệu cũ một tí so với lĩnh vực nhân văn nhìn chung (nhân văn chấp nhận tài liệu cũ hơn khoa học xã hội, lĩnh vực chấp nhận cũ hơn khoa học tự nhiên). Tuy vậy, không nên dùng tài liệu quá cũ vì có một số cập nhật, nghiên cứu mới. Trong nhân văn, thường dùng tài liệu trong khoảng 10 năm. Phật Học, tuy thuộc nhân văn, nhưng có châm chước nên trong khoảng 15-20 năm có thể chấp nhận được. Tất nhiên nếu có tài liệu mới hơn thì hay hơn. Nếu tài liệu cũ nhưng chưa có tài liệu mới hơn hay tài liệu mới không đủ độ tin cậy cao hơn thì phải dùng tài liệu cũ thôi.

Sách Phật Học cơ bản tiếng Việt về cuộc đời Đức Phật có cuốn Ánh Đạo Vàng. Ưu điểm cuốn này là mỏng nên đọc nhanh. Nhược điểm là đã được viết lâu rồi. Cuốn Đường Xưa Mây Trắng có ưu điểm là diễn tả Phật giống với con người, gần gũi với người hơn thần linh. Nhược điểm là hơi dầy, đọc mệt với những ai lười đọc. Một nhược điểm nữa tuy nó mới hơn Ánh Đạo Vàng nhưng Đường Xưa Mây Trắng vẫn là cũ vì đã được viết hơn 30 năm rồi.

Về tổng quan Phật Giáo cũng nên đọc một cuốn nào đó. Trong khoa học, khi học về Tâm Lý Học hay Xã Hội Học...thì trước tiên phải học về Đại Cương môn đó, thí dụ Đại Cương Tâm Lý Học (Introduction to Psychology), trong đó mô tả những lĩnh vực mà Tâm Lý Học nghiên cứu như Clinical Psychology, Psychopathology, Neuroscience, Social Psychology,...sau đó dần dần người học mới đi vào học từng môn cụ thể. Cũng như thế, trong Phật Học cần học một cuốn Đại Cương về Phật Giáo. Nói thật thì cả tiếng Việt và Tiếng Anh không dễ kiếm một cuốn kiểu này. Có lẽ phải học vài cuốn mới nắm được căn bản, tóm tắt Phật Giáo nói về những vấn đề gì.
Tiếng Việt có thể học hai cuốn là Trái Tim Của Bụt của thiền sư Nhất Hạnh. Ưu điểm cuốn này là thiền sư là nhà thần học Phật Giáo uyên thâm nên lý thuyết và thực hành ngài chuyển tải, dồn nén trong cuốn sách. Ngài dạy không chỉ lý thuyết mà còn có tính ứng dụng. Nhược điểm cuốn sách này là sách cô đọng nên người sơ cơ cần đọc nhiều lần mới tiêu hoá được. Nhược điểm thứ hai là sách phản ánh sinh hoạt, tu tập, và phương pháp Làng Mai, một truyền thống thiền nguyên thuỷ Phật Giáo. So với yêu cầu sách tổng quan Phật Giáo, cuốn này có hạn chế này vì thiền Làng Mai cũng chỉ là một nhánh của thiền thôi, trong khi đó thiền với dân Việt có lẽ chỉ 1%-10% người theo thôi. Tuyệt đại đa số dân Việt theo Tịnh Độ. Nên cuốn này hơi khó đáp ứng tiêu chí đề ra. Một nhược điểm nữa là cuốn này đã được viết gần 30 năm rồi, khá cũ. Cuốn thứ hai Phật Học Khái Luận khắc phục được yếu kém của cuốn kia là Phật Học Khái Luận trình bày khá khách quan về tổng quan Phật Giáo mà không chỉ đại diện cho một nhánh Phật Giáo nào. Cuốn này cũng không chắc mới hơn Trái Tim Của Bụt, cuốn sách chứng tỏ sự tiêu hoá Phật Pháp và sự cô đọng nhuần nhuyễn hơn Phật Học Khái Luận. Hai cuốn có thể bổ sung cho nhau. Có lẽ nên đọc Phật Học Khái Luận trước rồi mới đến Trái Tim Của Bụt. Một mặt hạn chế nữa của 2 cuốn này là cả hai đều không trình bày tổng quan Phật giáo dưới dạng lịch sử tự cổ chí kim và dạng địa lý từ Á sang Âu mà một số sách Phật Giáo tiếng Anh có đề cập (viết ở dưới). Tuy vậy, Ánh Đạo Vàng, Đường Xưa Mây Trắng và Phật Học Khái Luận lẫn Trái Tim Của Bụt là các tác phẩm tiếng Việt mình gợi ý các bạn nên học để đi vào Phật Giáo bài bản hơn, nền tảng hơn trong tương lai.
Tài liệu tiếng Anh về cuộc đời Đức Phật mình xin gợi ý các bạn đọc một số cuốn.
1. Old Path White Clouds là sách tiếng Anh của Đường Xưa Mây Trắng.

2. The Buddha: A Beginner’s Guide của tác giả John Strong người đã lấy tiến sĩ Phật Học ở the University of Chicago lừng danh, nơi chuẩn mực hàn lâm được đặt lên mức cao nhất. Sách xuất bản năm 2009, vẫn còn tương đối mới.

3. From Stone to Flesh: A Short History of the Buddha là cuốn sách đáp ứng nhiều tiêu chí hàn lâm. Tác giả Donald Lopez, lấy tiến sĩ về Phật Giáo ở the University of Virginia, là chuyên gia lớn về Phật Giáo và Khoa Học, về Phật Giáo Tây Tạng… Cuốn này xuất bản năm 2013, còn mới, do nhà xuất bản Đại học Chicago (the University of Chicago Press), một nhà xuất bản uy tín hàn lâm hàng đầu thế giới. (Xin mở ngoặc đơn, sách Phật Giáo bằng tiếng Việt ít được nxb hàng đầu thế giới ấn hành lắm).

4. The Life and Teachings of the Buddha According to the Oldest Texts của Allan R. Bomhard. Đây là cuốn sách đồ sộ, đến 800 trang. Nhược điểm là tác giả tuy có học vài đại học ở Hoa Kỳ nhưng không biết có lấy bằng tiến sĩ chưa? Ưu điểm là sách này rất mới, xuất bản năm ngoái 2018. Cuốn này là cầu nối giữa cuộc đời đức Phật và tổng quan Phật Giáo vì sách trình bày cả hai.

Về tổng quan Phật Giáo, mời các bạn tìm đọc các sách sau, tạm xếp theo thời gian dù không chính xác lắm:

The Heart of the Buddha’s Teachings của Thich Nhat Hanh. Đây là cuốn sách dựa trên Trái Tim Của Bụt nhưng được trình bày logic hơn.

2. A Concise History of Buddhism của Andrew Skilton người giảng dạy ở Đại học Oxford lừng danh. Cuốn sách có nói về bối cảnh của Ấn Độ trước Phật Giáo rồi mới đến Phật Giáo ở Ấn Độ rồi chuyển qua Đại Thừa, rồi Phật Giáo nhiều nước Á Châu. Nhược điểm là sách chưa đề cập về Phật Giáo Tây Phương, mà lẽ ra cần sơ lược tóm tắt, cũng như sách hơi cũ chút xíu: xuất bản đầu tiên năm 1994, tái bản có chỉnh sửa 1997, tiếp theo là 2004. Không biết có tái bản mới hơn không?

3. The Foundations of Buddhism của Rupert Gethin. Tác giả hàn lâm này lấy tiến sĩ Phật Học ở Đại học Manchester. Bản thân mình rất thích cuốn này. Sách chỉ ra sự khác biệt giữa Đức Phật lịch sử và Đức Phật huyền thoại. Chuyện này quan trọng với Phật Tử Việt vì dân Việt có lẽ đến hơn 95% biết Đức Phật huyền thoại chứ ít ai biết Đức Phật lịch sử. Điều hay nữa là sách hướng dẫn về các pháp số thần học Phật Giáo. Chương cuối có nói về Phật Giáo vài nước Á Châu. Nhược điểm là cuốn này không còn mới cho lắm (1998). Tất nhiên là đọc vẫn rất lôi cuốn mà vẫn giữ tính hàn lâm.

4. The Story of Buddhism: A Concise Guide to Its History and Teachings của Donald Lopez, tác giả hàn lâm nổi tiếng đã giới thiệu trong bài này. ưu điểm là sách có nói về Vũ Trụ Quan. Nhược điểm là sách không dày nên không quét được nhiều chủ đề mà chỉ xoáy vào Phật, Pháp, Tăng, cư sĩ, giác ngộ. Một nhược điểm nữa là hơi cũ, viết ra năm 2001. Sách này nên đọc đầu tiên vì khá cơ bản, ngắn gọn nhưng không kém phần hàn lâm.

5. An Introduction to Buddhism của Đức Dalai Lama. Tác giả nổi tiếng nhất của thế giới Phật Giáo. Sách cũng không cũ lắm (2004) và có ưu điểm là mỏng, dưới 100 trang nên đọc đầu tiên cho ai chưa biết Phật Giáo tổng quát. Nhược điểm là tác giả tuy rất nổi tiếng và có vài chục bằng tiến sĩ danh dự nhưng chưa có bằng tiến sĩ ở trường uy tín. Hơn nữa, tác giả viết bằng tiếng Tây tạng dịch ra Anh ngữ. Cuốn này không hoàn toàn tóm tắt Phật Giáo được nhiều vì giới hạn số trang.

6. Buddhism The Ebook: An Online Introduction của Charles Prebish và Damien Keown, hai gs Đại học Mỹ. Sách này chương đầu nói về bối cảnh trước Phật Giáo như về văn minh thung lũng Indus, về văn hoá Vệ Đà (Vedic), rồi nghiệp và vũ trụ quan của người Ấn. Rồi mới đến Pcuộc đời Phật rồi tôn giáo này ở Ấn Độ với những pháp số quan trọng mà căn bản. Sách cũng nói về sự phát triển phật giáo ở Ấn Độ phân chia nhiều bộ phái ra sao. Rồi qua Đại Thừa với các trường phái quan trọng. Có một chương cho thiền khá dài kế tiếp, từ thiền nguyên thuỷ đến zen kiểu Đại Thừa. Một điều hay nữa là sách nói về Phật Giáo ở Đông Nam Á, rồi Đông Á, rồi ở Tây Tạng. Sách còn chuyển qua Phật Giáo Hiện Đại ở Tây Phương với phong trào Phật Giáo Dấn Thân. Đạo đức học Phật Giáo cũng được bàn đến. Chương cuối bàn về Phật học ở Châu Âu và ở hoa Kỳ thời kì đầu, rồi chuyển sang Phật Học Hoa Kỳ hiện tại. Sách gần 400 trang. Là cuốn sách mình rất thích vì quét nhiều chủ đề Phật Giáo đúng là tổng quan, tự cổ chí kim, từ đông sang tây, từ thần học Phật Giáo cho đến vai trò công nghệ trong nghiên cứu Phật Giáo. Sách cũng không cũ lắm (2005) nên đây là cuốn sách nói chung đáng giới thiệu. Tuy vậy, lượng thông tin hơi nhiều nên đọc một đôi cuốn trên trước khi học cuốn này cũng là cách hay.

7. What the Buddha Taught của tác giả hàn lâm Richard Gombrich, người lấy tiến sĩ Phật Học ở Oxford và giảng dạy ở đây nhiều thập kỉ. Với mình thì ông là tác giả hàng đầu của Phật Học. Sách nói về bối cảnh trước khi có Phật Giáo. Sách chú trọng vào các pháp số, và không giới thiệu đến Đại Thừa hay Phật Giáo các vùng khác. Sách mới (2009) với 250 trang nên đây là cuốn sách nên đọc đầu tiên để có khái niệm và đủ tính hàn lâm. Một lưu ý là cần phân biệt sách này với sách cùng tên nhưng khác tác giả, What the Buddha Taught của Walpola Rahula, đã xuất bản cũ rồi (năm 1959).

8. World Religions: Buddhism của tác giả hàn lâm nữ Madhu Bazaz Wangu, người đã lấy tiến sĩ và giảng dạy Phật Giáo ở University of Pittsburgh. Sách có 150 trang nên khá dễ đọc. Sách có nói ngắn về đời Phật, sự lan truyền tôn giáo này, sự đa dạng Phật Giáo, và có phần nghệ thuật Phật Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay. Một điều hay nữa là sách có rất nhiều ảnh minh hoạ sắc màu đẹp, cứ 1 đến 2 trang là có ảnh lớn. Sách dùng cho trẻ em chắc thú vị dù không kém phần hàn lâm. Sách còn mới (2009) nên xin trân trọng giới thiệu.

9. Buddhism: the basics của Cathy Cantwell người đã lấy tiến sĩ ở University of Kent và dạy ở Oxford vài thập kỉ. Cuốn sách này có ưu điểm là khá mỏng, 180 trang. Sách chỉ có vài phần chính là Đức Phật và gốc rễ của truyền thống Phật Giáo, Giáo Pháp, di sản văn bản và truyền miệng, Tăng, và phần cuối là các truyền thống chính Phật Giáo. Cuốn xuất bản khá mới (2010) nên dành cho người chưa biết nhiều về Phật Giáo.

10. An Introduction to Buddhism: Teaching, History and practice của tác giả hàn lâm Peter Harvey, tiến sĩ Phật Giáo ở Đh Lancaster bên Anh, dạy đại học về Phật Giáo. Sách do nhà xuất bản uy tín Cambridge ấn hành. Sách nói về bối cảnh trước Phật Giáo ở Ấn Độ, rồi Phật Giáo Ấn, rồi Đại Thừa, rồi sự phát triển và lan đi của Phật Giáo ở Á Châu có Việt Nam. Có nói về sự thực hành Phật Giáo, Đạo Đức Phật Giáo, Rồi Phật Giáo ra khỏi Á Châu với sự ảnh hưởng của văn chương, triết học, và tâm lý học. Sách mới (2013), xứng đáng được giới thiệu cho nhiều người.

11. Buddhism: An Introduction của tác giả hàn lâm John Strong, đã giới thiệu trên, lấy tiến sĩ Phật Giáo ở the University of Chicago lừng danh. Không có thời gian nên mình chỉ viết là cuốn sách rất đồ sộ (900) trang này có nhiều điều tổng quan, có cả Phật Giáo Việt. Sách rất hàn lâm lại rất mới (2015) nên xin trân trọng giới thiệu. Có lẽ vì sách dầy nên người đọc nên đọc một vài sách trên trước khi vào cuốn này.


Read More »

Tu Tập Với Tăng Thân Mỹ

Từ năm ngoái đến nay, thi thoảng mình lại đến tu tập trong một tăng thân nước ngoài ở thành phố Berkeley nhỏ nhắn. Có mười mấy người khá trẻ tham dự. Phần lớn là giới 20-40, trí thức và có công việc ổn định. Tăng thân tu theo phương pháp của thiền sư Nhất Hạnh. Có ngồi thiền, đi thiền, thiền trà, pháp đàm, và đọc một số sách của ngài thiền sư.
Mình đi dạy, làm thầy người ta nhiều năm rồi và cũng làm học trò nhiều năm rồi. Bây giờ là lúc làm điều gì đó ngang hàng trong tu tập với con người.
3 điều đáng chú ý trong tăng thân này là tính dân chủ, tính vô ngã, và bảo vệ môi trường.
Chuyện ăn uống thì mỗi người tự đem thức ăn chay đến rồi đặt trên bàn chia nhau cùng ăn (potluck). Cả chủ lẫn khách đều không nợ nhau. Theo tâm lý học các mối quan hệ thì cán cân kinh tế ngang nhau làm cho mối quan hệ bền lâu. Mỗi tuần đổi địa điểm sinh hoạt xuay vòng. Hôm nay là chủ thì cả chục lần tới là khách. Dân chủ này dễ dẫn đến vô ngã hơn. Hãy tưởng tượng mô hình truyền thống Á Đông sinh hoạt trong một cơ sở Phật Giáo thì trụ trì thường thuyết giảng dưới này ngồi nghe. Ăn uống chùa nấu (dù là của Phật Tử cúng). Như thế thì rất truyền thống, rất bình thường. Tuy nhiên, sự dân chủ có vấn đề gì đó không ổn mà chỉ khi so sánh với tăng thân Mỹ như trên thì mới thấy. Tất nhiên, cách sinh hoạt kiểu Mỹ hoá Phật Giáo này có những nhược điểm rõ ràng, bên cạnh những mặt tích cực.
Một điều nữa là tăng thân không phân biệt nhiều, dù là xuất gia hay tại gia. Tất cả ai cũng như nhau: ngồi trong vòng tròn, cùng nhau thực tập, mỗi người chia nhau đọc một đoạn trong cuốn sách, ăn cùng chia ra...
Điều cuối mình trân trọng là sự bảo vệ môi trường. Nơi mình ở phân đến 6 thùng rác khác nhau. Ấy thế mà đến tăng thân còn ấn tượng hơn. Khi mình muốn bỏ rác bọc dĩa thức ăn (cho khỏi ruồi), AnnaLise bảo là không có thùng rác cho ni lông, rằng cô đã không dùng ni lông lâu rồi. Tăng thân đã chỉ có thùng đựng rác hữu cơ thôi. Phải rồi, nhiều người Mỹ hiện tại không dùng rác ni lông, uống nước thì dùng chai thuỷ tinh đem theo chứ không uống trong chai nhựa mỏng nữa. Ra chợ mua thức ăn cũng dùng lá gói hay bỏ trong giỏ tự mang theo đem về.
Ý thức giữ gìn môi trường từ mỗi người dân cao nên không lạ khi thành phố Berkeley này rất sạch dù mật độ dân cũng không thưa gì mấy. Khi viết những dòng này thì mình kiểm tra mức độ ô nhiễm không khí thấy chỉ số AQI là 15: rất sạch.
Read More »

Nhìn Từ Bên Trong và Bên Ngoài

Trong nghiên cứu tôn giáo có hai chữ là insider (góc nhìn từ người trong cuộc) và outsider (nhìn từ người ngoài cuộc). Cụ thể hơn, Nhân Học Tôn Giáo có hai thuật ngữ emic và etic với nghĩa tương đương. Đôi khi cái nhìn từ hai phía này là khác nhau. Có thể: một bên đúng một bên sai, cả hai đều sai, cả hai đều đúng, cả hai đều có phần đúng và phần sai.
Ảnh bìa của Tạp Chí Time (Hoa Kỳ) năm 2013 có đưa ảnh một sư Miến Điện tên U Wirathu với dòng chữ "Gương Mặt của Khủng Bố Phật Giáo." 
Image may contain: 1 person, text 
Nhưng Tổng Thống Miến Điện lúc đó, ông Thein Sein, đã công kích tờ Time và gọi tôn kính vị sư này là "son of Lord Buddha" (người con trai của Phật Tổ). Bộ trưởng Các Vụ Việc Tôn Giáo ở
Miến lúc đó cũng đứng về phe sư này.
Image may contain: screen
Mình không muốn bàn về chính trị hay tôn giáo ở đây; mình cũng không muốn bảo bên nào đúng bên nào sai, mà chỉ muốn nêu ra vấn đề là có những hệ giá trị khác nhau, những hiểu biết khác nhau nhìn từ hai hướng tiếp cận bên trong và bên ngoài.
Read More »

Nan Đề trong Đạo Đức.

Hồi học môn Đạo Đức (ethics), giáo sư mỗi khi vào lớp giảng một bài khoảng nửa tiếng thôi, sau đó là có một nhóm cỡ 3-4 người lên thuyết trình. Tuần nào gần như cũng thế, trừ vài tuần đầu học nhiều lý thuyết và tuần cuối thi cử.
Một bài thuyết trình dạng này để đạt yêu cầu tối thiểu phải trình bày một lưỡng đề (dilemma, hay nan đề) để đem ra mời cả lớp tranh luận. Cãi nhau rất nhiều. Lưỡng đề là một việc hay sự kiện mà nếu giải quyết cách này thì nó cũng có nhiều bất ổn mà giải quyết cách kia cũng có nhiều bất ổn. Điểm được chấm cao dựa vào vài yếu tố mà yếu tố quan trọng phải là có một lưỡng đề hay và gây tranh cãi. Thí dụ một lưỡng đề dở là nên du học hay không nếu ở nước đang phát triển như Việt Nam? Thực ra thì lựa chọn nào cũng có hai mặt nhưng lưỡng đề này hay vừa phải, không hay lắm vì phần nên du học nó hợp lý hơn nếu bạn đủ tiền và khả năng. Thực tế bao người giỏi/giàu du học đấy thôi. Tức là câu hỏi này nó cũng có tranh cãi nhưng không nhiều.
Mình cũng có thuyết trình về một lưỡng đề và được chấm điểm tối đa hihi.
Lớp có trình bày vài lưỡng đề thấy lạ. Lạ vì tưởng mọi chuyện là đương nhiên nhưng nó không đương nhiên. Thí dụ là nên tiêm phòng vắc xin hay không? Ở Mỹ, và có thể nhiều nơi trên thế giới, nhiều người cứ tưởng nên tiêm phòng vắc xin. Như thế là tốt vì mình được khuyên là nên tiêm. Nhưng thực ra nó có tác hại đủ lớn để trở thành nan đề hay.

Một lưỡng đề hay nữa là về việc sử dụng máy bay điều khiển từ xa nhỏ (drone). Con diều thì được khuyến khích dùng chứ drone thì có một số điều mà có vẻ pháp luật Hoa Kỳ chưa chặt chẽ được. Thí dụ là nhiều drone có máy quay phim nên nó có thể dùng để quay cuộc sống riêng tư người dân. Cánh quạt của drone cũng có thể gây nguy hiểm cho con người. Hiện tại thì một số nơi quy định khá lỏng lẻo rằng chỉ cần bỏ tiền là mua về xài.
Án tử hình cũng là một nan đề hay. Rất nhiều nước Tây Phương Anh, Pháp Đức, Ý...đã bỏ án tử hình rồi nhưng Hoa Kỳ, Do Thái (Israel), Trung Quốc, Việt Nam... vẫn còn. Nga, và một số nước khác, vẫn còn nhưng trên thực tế đã không có bản án tử hình nào trong 20 năm nay. Trong nước Mỹ thì vài chục tiểu bang bỏ, vài chục tiểu bang vẫn giữ. Trên thế giới thì có một số quốc gia bỏ sau bao năm lại thi hành trở lại. Bên nào cũng có lý do.
Đạo Phật không đồng ý với án tử hình. Đức Giáo Hoàng cũng lên tiếng bãi bỏ án này.
Read More »

một gương mặt trong Nữ Quyền Phật Giáo: Alice Collett

Xin giới thiệu một gương mặt trong Nữ Quyền Phật Giáo: Alice Collett.
Bà lấy tiến sĩ về Phật Giáo ở Cardiff University (Anh, 2004).
Bà có viết sách, tạp chí về vấn đề này. Bà có làm việc chung với Anayalo, một tỳ kheo người Đức hay viết về Nikayas so sánh với Agamas. Ông cũng có viết đôi điều về nữ quyền trong Phật Giáo.
Read More »

Nguyền rủa-đạp phá thì dễ; xây dựng-phát triển thì khó

Chuyện người biểu tình hay bất đồng quan điểm với một chính thể là thường. Những người bất mãn có thể dễ dàng chỉ ra những kém cỏi của chính quyền bất cứ nước nào, vì đơn giản chả có mô hình chính trị nào hoàn hảo: chính quyền này tham nhũng-hối lộ, quan liêu, bán nước, để xả súng bừa bãi, vừa ngu vừa ác độc đàn áp bỏ tù đánh giết cướp hiếp người bất đồng chánh kiến...Nói chung là có vài tỉ kém cỏi của bất cứ chính quyền nào có thể chỉ ra. Nhóm ấy nhồi sọ dân chúng rằng chỉ cần thay đổi cái nhóm cầm quyền hiện tại là đất nước sẽ như cá chép hoá rồng, sẽ vùn vụt vươn vai như Thánh Gióng hay mị dân đủ kiểu.
Tất nhiên ở chiều ngược lại, chính quyền nào cũng không ngừng nhồi sọ tuyên truyền thần dân, gọi nhóm kia là phản động, hám danh lợi và ngu xuẩn nên bị lợi dụng với ý nghĩ nếu lật được nhóm lãnh đạo thì sẽ được chia chức lãnh đạo, cõng rắn cắn gà nhà, không hiểu thời thế,...
Đôi khi nhóm bất mãn đấu tranh. Phần lớn các cuộc đấu tranh, nếu không nói 99%, là thất bại vì chính quyền chủ động nắm quân sự trong tay. Đấu không lại.
Hoạ hoằn lắm vật đổi sao dời nhóm ấy lại được lên lãnh đạo đất nước sau bao phen vào sinh ra tử nếm mật nằm gai.
Nhưng điều hành một đất nước đâu phải chuyện dễ. Chỉ ra kém cỏi của chính quyền đương thời thì, như đã nói, rất dễ; xây dựng chính quyền mới đi, rồi sẽ biết khó.
Một đất nước đang phát triển (developing country, tên lịch sự để chỉ một nước nghèo+ngu) nó phải chấp nhận không hoàn hảo thôi. Nếu nó phát triển vài mặt này thì phải kém cỏi vài mặt kia, và ngược lại. Điều này cũng chả khác gì có ông bác sĩ mới thay ông bác sĩ cũ để cố chữa cho một núi bệnh nhân nan y: không dễ đâu.
Read More »

6 Thùng Rác và Không Túi Ni Lông

Nơi mình ở yêu cầu phân loại đến 6 loại rác. Có 6 thùng khác nhau cho các loại rác.
Vùng mình sống giờ đã không còn túi ni lông. Siêu thị chiều nay mình ra mua thực phẩm có vài loại rau người ta phun sương nên ướt. Mua xong xách ra cổng thì vì túi giấy thấm nước nên rách, rớt thực phẩm mua ra. Người lau sàn nhà tốt bụng đi kiếm cho mình túi xách giấy khác.
Ý thức người dân và cả pháp luật về môi trường cao. Mình trân trọng điều này.
Phật Giáo có nói về chánh báo và y báo. Chánh báo là thân tâm mình; y báo là môi trường tự nhiên và xã hội quanh mình. Khi người ta có ý thức bảo vệ môi trường cao thì y báo sẽ nhận về tốt đẹp là môi trường khá sạch.
Image may contain: indoor
Image may contain: indoor
No photo description available.
Read More »

Đôi Điều Về Bảng Xếp hạng Các Quốc Gia Hạnh Phúc Thế Giới 2019

Bảng xếp hạng các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2019 (tải bảng về, trang 27-29)
Trước hết, nên biết rằng hạnh phúc là một khái niệm rất trừu tượng và khó đo lường nên bảng xếp hạng này chỉ có giá trị tham khảo thôi chứ chả hàn lâm gì.
Trong bảng này thì các quốc gia Bắc Âu và Tây Âu rất hạnh phúc. Từ vị trí 1 đến 11 là:
1. Finland (7.769)
2. Denmark (7.600)
3. Norway (7.554)
4. Iceland (7.494)
5. Netherlands (7.488)
6. Switzerland (7.480)
7. Sweden (7.343)
8. New Zealand (7.307)
9. Canada (7.278)
10. Austria (7.246)
11. Australia (7.228)
...
Anh thứ 15, Đức 17, Mỹ 19, Pháp 24....

Có điều thú vị là 3 quốc gia Trung Quốc, Việt Nam, và Bhutan lần lượt đứng kề nhau thứ 93, 94, và 95.
Sở dĩ mình liệt kê Bhutan ra là vì có ý kiến trước đây cả thập kỉ cho rằng Bhutan là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Tất nhiên là có vài bảng xếp hạng các quốc gia hạnh phúc và số liệu không giống nhau nhưng giờ thì từ từ người ta nhanh chóng nhận ra Bhutan, quốc gia rất trong sạch môi trường, không hạnh phúc như chính họ tuyên truyền về họ. Phải rồi, một quốc gia không hiệu quả về y tế, không có Đại học hàng đầu, dân thì nghèo làm sao có thể hạnh phúc nhất thế giới được? Y tế, giáo dục, và kinh tế là ba tiêu chí mà nếu lờ đi trong việc xét hạnh phúc của cá nhân, của cộng đồng, hay quốc gia thì cũng giống cố tình lờ đi sự tồn tại của 3 con voi trong phòng khách.
Thường ý thức hệ hay tôn giáo hay bảo rằng chúng ta là những người hạnh phúc nhất. Chuyện này có thể đúng và có thể sai. Nhưng nếu y tế, giáo dục, và kinh tế trong cộng đồng nào đó quá thấp mà bảo chúng tôi đang hạnh phúc thì có lẽ là nhóm ấy đang bị tuyên truyền?
Link này có thể tải bảng về: https://www.cnn.com/travel/article/worlds-happiest-countries-united-nations-2019/index.html
Read More »

Question for Della Duncan

To Della Duncan,
 I hear a statement that Bhutan is the happiest country in the world: my doubt. It is because I hear the people in North Korea say they are very happy, yet they do not have food to eat. Are they really happy or are they the victims of propaganda? The concept of relative deprivation should be considered. If you see that other people are rich and well-educated, you may be unhappy. Globalization has come. I think sooner or later the people in Bhutan or North Korea will realize that their public health is simple, their educational system is low, and their GDP per capita is super low (of course they do not have serious pollution, they do not have wars, and their communal culture may be cool). If Bhutan or North Korea is one of the happiest countries in the world, people from the world have to migrant to this country. In contrast, I am afraid their citizens will move to some developing country if they have a chance. There are some rankings on happiest countries, but in this link, 2019, Bhutan is the 95th: https://www.cnn.com/travel/article/worlds-happiest-countries-united-nations-2019/index.html
    I think freedom is the foundation of happiness. Western (American) elements of freedom are external: economic autonomy, educational attainment, political participation and religious liberty. In contrast, Eastern (Buddhist) elements of freedom are internal: precept, concentration, and wisdom. Do you think a free and happy person or a happy country owns  both Western and Eastern elements of freedom? 
My second question is which majors may help improve the study and application of Happiness Studies?
Thank you very much,

Quang Le.
Read More »

Quan Niệm Hạnh Phúc của Shopenhauer và 3 ứng dụng của PG Nhật

Triết gia Đức Arthur Shopenhauer (1788-1860) có đưa ra lý thuyết về hạnh phúc thế này. Hạnh phúc là tương đối vì nó phụ thuộc vào điều con người có và điều con người muốn. Nó như một phân số với điều đang có là tử số và điều muốn có là mẫu số. Ví dụ nếu có 100 đô mà mình muốn có 1 ngàn đô thì điều mình có chỉ 1/10 điều mình muốn thôi. Có nghĩa có thể có thất vọng, buồn chán. Tuy vậy, cũng từng ấy tiền mình có mà mình muốn có 50 đô thôi thì điều mình có gấp 2 lần điều mình muốn: tức mình hài lòng, mừng rơn, hạnh phúc.
Shigaraki, nhà thần học Phật Giáo Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản, viết tiếp quan niệm này. Ông bảo muốn hạnh phúc nhiều thì có 3 cách:
1. Tăng điều mình có.
2. Giảm điều mình muốn.
3. Tăng điều mình có và giảm điều mình muốn.

Rồi ông chia sẻ rằng kiểu hạnh phúc thứ 3 tuyệt nhất.
Phật Giáo là cách kiểm soát ham thích, tức có thể sai sử hay giảm thiểu ham muốn (cách 2). Nghĩa là tăng được an lạc.
Trong thực tế, nhìn chung thiền trên thế giới đi về hướng thứ 2, tức là tìm cách giảm ước muốn, trở về sống đời sống đơn giản muối dưa. Có vẻ Phật Giáo Nhật đi về hướng thứ 3, tức một mặt giảm ham thích (zen hay niệm Phật để quản lý tâm thức hiệu quả) trong khi tăng sở hữu (về giáo dục, sức khoẻ, kinh tế).
107-114.
Read More »

Nhóm Tu Thiền Da Màu ở Oakland, thuyết trình bởi Ann Gleig

Gs Ann Gleig từ University of Central Florida đến UC Berkeley thuyết trình về một trung tâm thiền ở tại thành phố Oakland mà có toàn người da màu đến tu tập. Trong số họ, có khá nhiều giới LGBTQ.
Mình có tham dự buổi thuyết trình này và ấm áp vì ngày trước mình có đậu University of Florida mà không học. Mình cũng đã ở Orlando, thành phố có trường này, nhiều năm với bao kỉ niệm êm đềm.
Đây là đề tài nóng hổi trong giới Phật Học đương đại Hoa Kỳ. Lý do: đây là trung tâm, hay có thể gọi là nhóm, thiền đầu tiên với số lượng khá đông cho người da màu ở Mỹ.
Ann Gleig tranh cãi rằng theo bà thì Phật Giáo Hoa Kỳ đã đi về Hậu Hiện Đại (postmodernism) vì trung tâm thiền cho người da màu với khá đông đa dạng giới tính này đáp ứng khá nhiều tiêu chí của Phật Giáo Hậu Hiện Đại.
Trong khi đó, gs Robert Sharf, đang dạy ở UC Berkeley, người mà Ann Gleig có trích dẫn trong một bài viết trước đó, lại tranh luận rằng nhóm này vẫn còn nằm trong Phật Giáo Hiện Đại chứ chưa đi đến Hậu Hiện Đại.
2 gs cãi nhau rất sôi nổi. Cãi đến độ người này vừa hé miệng chưa nói được mấy câu người kia đã cắt lời. Và ngược lại. Mấy lần như vậy!
Mình cảm thấy ngượng cho lối cãi này. Sau đó mình có hỏi Oren Hanner, gs đang dạy mình một lớp Phật Học, người cũng tham dự buổi đó, rằng sao cả hai cãi mà cứ không cho bên kia nói mấy lần như vậy? Hanner cười cười bảo đây là kiểu Pháp thế đấy!
Gleig cũng nhân dịp này chia sẻ chút ít về cuốn sách bà mới xuất bản 2018 tên American Dharma do nhà xuất bản uy tín Đại học Yale ấn hành. Thường thì để được một nhà xuất bản uy tín từ một Đh uy tín ấn hành, cuốn sách ấy phải có giá trị hàn lâm hay một điểm độc đáo nào hay một khám phá mới mẻ gì đó.
Khi được hỏi có phải trung tâm tương tự trung tâm này sẽ không thể mọc lên ở đâu khác, mà chỉ có thể mọc ở Cali? Câu trả lời là trung tâm này không tìm thấy ở đâu khác mà chỉ thấy ở Oakland mà thôi!
Mình sẽ giải thích thêm về chủ đề này.
Read More »

Thiền Sư Nhất Hạnh Nâng Cao Nữ Quyền và Sự Phê Phán Từ Hai Phía


Tháng 10 rồi là sinh nhật ngài thiền sư. Mình kỉ niệm theo cách của mình là đến chùa Phổ Từ giảng một bài về Thiền Sư Nhất Hạnh Diễn Giải Tứ Diệu Đế Ra Sao?
Mình tri ân thiền sư và tăng thân dù chỉ tu học với quý ngài từ 2004-2011.
Một điều đáng quý ở thiền sư là việc nâng nữ quyền trong Phật Giáo. Thiền sư đã làm điều này với nhiều hiểu biết, thương yêu, và cả can đảm. Điều này, tuy vậy, đã làm cho hai phía không vui, không hài lòng, thậm chí bực bội. 2 quan niệm này nhìn từ hướng bên trong, insider, và bên ngoài, outsider.
Trong Làng Mai, nhìn chung địa vị người nữ xuất gia chỉ thấp hơn một chút so với nam xuất gia. Ví dụ là khi đi khất thực thì không phải tăng đi xong rồi mới đến ni đi kế cận mà Làng Mai tổ chức kiểu 2 hàng do tăng đi trước vài vị rồi hàng ni cũng song song bắt đầu đi. Tất nhiên còn nhiều ví dụ nữa.
Phía truyền thống thì bảo để cho ni vào giáo đoàn xuất gia đã làm chánh pháp mất sớm đến nhiều ngàn năm! Thành thử, một sư bà phải cung kính một thầy trẻ đáng tuổi con cháu đã là chuyện quá có lợi cho ni chúng! Thế mà bây giờ còn đòi nâng thêm nữ quyền cho ni giới thì không thể chấp nhận nổi. Hơn nữa, làm trái lời Phật là sai rồi!
Ngược lại, phụ nữ nước ngoài (mới tuần rồi mình có nói chuyện với một tiến sĩ Phật Học nữ người Mỹ) lại không thể chịu được cái quan niệm phụ nữ phải thấp kém hơn nam giới, dù chỉ thấp hơn một chút theo quan niệm như định mệnh từ ngài thiền sư. Họ muốn phải bình đẳng thật sự với nam giới cơ với câu hỏi bỏ ngỏ bao giờ mới có lãnh đạo một giáo hội, tăng thống hay pháp chủ, là một nữ xuất gia/tại gia khi mà lãnh đạo chính trị nhiều nước đang là phụ nữ. Họ bảo nghe nói Phật Giáo giải thoát phụ nữ mà sao tăm tối nữ quyền thế này?
Read More »

Buddhist/Mahayanist Logic



Should include Logic from Mario's class.

Read More »

Thu Berkeley

Trên những chặng đường quen từ thành phố Berkeley êm đềm mình đang sống về San Jose, mùa thu nhẹ nhàng hiển bày với lác đác lá vàng lá đỏ. Thu Berkeley không biểu hiện rõ như những tiểu bang miền bắc, nhưng cũng đủ để cảm nhận được thi tứ của mùa thơ: thoảng sắc màu, dịu dàng, mát mẻ. Những dãy nhà lơ thơ, những con phố không lớn, những cây lá dập dìu— thu Berkeley cũng nên thơ và đẹp ngơ ngẩn như con người Berkeley. Ta yêu thành phố bé nhỏ này tự khi nào ấy nhỉ?
Read More »

Các Mae Chi ở Thái

Bài viết này gần 10 năm trước (2010) của Steven Collins (vừa qua đời) và Justin McDaniel, 2 nhà Phật Học rất uyên bác của Mỹ, về các tu nữ (mae chi) Phật Giáo Thái và việc học Pali nhìn từ góc độ Nhân Chủng Học: Buddhist "nun" (Mae Chi) and the teaching of Pali in contemporary Thailand. Lâu lâu mới thấy 2 học giả cùng viết một bài chung. Có duyên ai đó nên dịch nhiều tài liệu của hai gs này ra Việt.
Có 1 ý là nếu một vị tăng tốt nghiệp cấp độ 9 Pali thì được nhận 3 ngàn baht (100 đô Mỹ) một tháng, trong khi một mae chie thì cũng ở mức đó chỉ được nhận 1700 (hơn một nửa) baht. Điều này cho thấy Thái chú trọng ngôn ngữ Pali cũng như họ có đãi ngộ cho tăng và tu nữ khá ổn. Có một số mae chi có vẻ đòi nữ quyền trong Phật Giáo nhiều hơn.
Một vấn đề nữa là nhìn chung Thái có rất ít tỳ kheo ni. Có một số nỗ lực làm sống dậy truyền thống tỳ kheo ni ở quốc gia này. Tuy vậy, các mae chi lại không hào hứng gì việc này (qua phỏng vấn và bảng các câu hỏi--phương pháp điển hình trong nhân chủng học). Một số bảo họ khá ổn trong vai trò mae chi nên chả biết tỳ kheo ni có khá hơn địa vị của họ hay không. Hơn nữa, ai cũng có khả năng giác ngộ nên mae chi cũng thế: tại sao phải cần tỳ kheo ni? Rồi thì quyền lợi mae chi, như đã nêu từ đầu, cũng thua tăng; tỳ kheo ni cho đúng truyền thống thì cũng chả bình đẳng với tăng nên tại sao phải cần tỳ kheo ni.
Bài viết còn chia sẻ về rất nhiều mae chi là giảng viên các Đại học Phật Giáo về Phật Học hay Pali và có dạy cho cả tăng nữa.
Phần dưới đây không có trong bài trên: Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh truyền đạo vào Thái Lan đã 1 thập kỉ rồi và có cả trăm tỳ kheo ni ở đất nước này. Tất nhiên, thiền sư Nhất Hạnh theo nguồn gốc Bắc Tông còn duy trì tỳ kheo ni. Điều này khác với Nam Tông đã mất đi sự truyền thừa tỳ kheo ni.
Read More »

4 Tiêu Chí Của Một Tôn Giáo Hay

Ambedkar (Ấn Độ, 1891-1956) là người cải đạo cho đông đảo người nhất thế kỉ 20. Giai cấp dưới giai cấp (the Untouchables) ở Ấn Độ đã theo ông quy y theo Phật Giáo đông đảo. Ambedkar đã lấy tiến sĩ ở Đại học Columbia rồi hậu tiến sĩ ở Đại học Bonn một trăm năm trước.
Theo Ambedkar thì một tôn giáo "xịn" phải thoả mãn 4 tiêu chí sau:
1. Such a faith must foster morality (đức tin phải thúc đẩy đạo đức)
2. Accord with scientific reason (phù hợp với lý tính khoa học)
3. Offer liberty, equality, and fraternity (cung cấp tự do, bình đẳng, và tình huynh đệ)
4. Not sanctify or ennoble poverty (và không biện hộ hoặc cao quý hoá đói nghèo).
Theo ông thì chỉ mỗi Đạo Phật đáp ứng các yếu tố đó.

Đây là quan điểm của cá nhân ông.
Image may contain: text
Read More »

Reciprocity: Có Qua Có Lại

Reciprocity nghĩa là có qua có lại. Theo Tâm Lý Học Các Mối Quan Hệ (Psychology of Relationships) thì mối quan hệ có bền hay không phải có quy luật này. Trong kinh tế thì kiểu bánh ít đi, bánh quy lại. Ngày nay, cái điện thoại không chỉ là quyền lợi cho mình muốn gọi ai thì gọi mà còn nghĩa vụ nhận cuộc gọi. Có người khi họ muốn gọi ai thì họ gọi; khi không muốn gọi nữa họ khoá máy hay đổi số. Đến khi họ cần họ gọi người khác thì người kia không trả lời. Lý do là khi người ta gọi anh mà anh không trả lời (vì anh khoá máy hay đổi số) thì tại sao khi anh cần anh gọi họ và muốn họ phải trả lời? Khi đó bắt đầu hiểu rằng điện thoại cũng là một giao dịch dạng 2 chiều, reciprocity.
Tag trên Facebook cũng thế. Có người cứ tag người ta một số ảnh về cá nhân họ, hay đồ vật thuộc về họ vào facebook người khác và người kia chấp nhận cho xuất hiện trên wall của họ. Nhưng khi người khác tag lại thì người này không muốn để ảnh ấy vào tường của mình. Nếu làm nhiều lần như vậy thì người kia không thích vì không có qua có lại trên facebook.

Để mối quan hệ bền thì cần reciprocity, không những trong kinh tế, điện thoại, facebook mà còn trong nhiều lĩnh vực.
Có người còn chia reciprocity làm 3 dạng:
1. Negative reciprocity: kiểu như có qua có lại nhưng hơi xạo hay lừa. Thí dụ bảo tao bán hàng này mày đưa tiền trước. Sau đó trốn luôn mà không đưa hàng. Ví dụ nữa là bán hàng giả. Thí dụ lấy một viên thuốc tốt ở Pháp về pha thêm bột mì thành 3 viên bán. Cũng có thể là kiểu bán táo mà đề giá 10 ngàn nửa kí mà chữ "nửa" viết rất nhỏ, còn chữ "10 ngàn" và chữ "kí" viết bự. Còn ví dụ nữa là khi có người từ xa đến họ hỏi muốn đến chơi nhà. Người này hỏi vâng xin mời hồ hởi lắm nhưng hỏi khi nào ông đến thành phố này? Trong 1 tuần từ ngày này đến ngày này. Thế là người này bảo không tôi đi nơi khác rồi mặc dù rất muốn tiếp đón.
2. Balanced reciprocity: kiểu này là thuận mua vừa bán giữa hai người. Thí dụ vào tiệm ăn món nhưng đã thấy giá trước rồi khách kêu món và ăn. Đây là giao dịch trực tiếp giữa khách và chủ quán. Còn một giao dịch trực tiếp nữa cũng đang diễn ra là bồi bàn phục vụ khách chu đáo thì khách cho tiền tip nhiều; phục vụ kém thì cho ít hay không cho. Một số cha mẹ nuôi nấng con cái với mong muốn sau này về già nó sẽ có hiếu chăm sóc lại mình.
3. Generalized reciprocity: kiểu này như A cho B, rồi B cho C, rồi C cho D,...cho đến một lúc nào đó có ai đó vay cơ hội nào sẽ đến với A trở lại. Ví dụ là một số tổ chức bất đồng chánh kiến với chính quyền nào đó. Họ muốn lật đổ chính quyền để lãnh đạo đất nước. Họ cấp một số học bổng cho dân nhưng thực ra chỉ cho con cái những người chống đối chính quyền. Sau này những đứa đó sẽ học giỏi về làm việc cho, hay hỗ trợ, tổ chức bất đồng chánh kiến này. Kiểu là người A cho tiền cho tổ chức B chống chính quyền; tổ chức B này cấp học bổng cho người C. Người C này sau này làm việc cho tổ chức để lật chính quyền D. Rồi từ đây chính quyền mới lên cho điều luật dễ thở cho công ty của người A nên người A đầu tư vào sinh lợi. Đây chỉ là ví dụ thôi. 
Read More »

Phật Học Thời Nay Hàn Lâm Hơn Thời Xưa

Một số ý kiến cho rằng thời hoàng kim của tôn giáo nói chung và Phật Giáo nói riêng đã ở trong quá khứ.
Thực ra chả ai chứng minh được nhận định này đâu.
Hiện tại, Phật Học ở một số quốc gia Tây Phương như Anh, Đức, Pháp, Canada, Úc, và đặc biệt Hoa Kỳ, cũng như vài nơi Á Châu như Nhật Bản, Hong Kong, và Singapore rất hàn lâm. Nó học thuật hơn ngày xưa nhiều. Một thí dụ.
Ngày xưa ở Trung Hoa đã đến lúc Phật Giáo rất thịnh và có nhiều nhân vật đi chuyên về một lĩnh vực như có vị chuyên Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Hoa Nghiêm, hay Duy Thức...Nhưng các vị vẫn không biết nhiều về các tôn giáo khác ở Ấn Độ như Ấn Độ Giáo, Kỳ Na Giáo...để so sánh đối chiếu với Đạo Phật vì một lý do là trong các tôn giáo Á Đông thì chỉ mỗi Đạo Phật là tôn giáo duy nhất có tính phổ quát, tức có thể áp dụng cho nhiều dân tộc (trên thế giới tuy có nhiều tôn giáo nhưng cũng chỉ có 2 tôn giáo nữa là Đạo Chúa và Đạo Hồi là tôn giáo phổ quát mà thôi). Mà tìm hiểu các tôn giáo Ấn Độ rất quan trọng trong việc hiểu Đạo Phật; nếu chỉ học Đạo Phật không thì nhiều khi mình chưa hiểu rõ Đạo Phật mà phải học các tôn giáo khác nữa mới hiểu thêm, hiểu rõ Đạo Phật. Có sự kiện nào đó ở Ấn Độ có ghi lại trong Phật Giáo, nhưng đối chiếu với Kỳ Na Giáo chẳng hạn thì lại thấy cách kể và kết quả khác nhau. Trong Phật Giáo có thể ông vua này là đệ tử Phật nhưng trong Kỳ Na Giáo, cũng ông vua ấy lại là đệ tử của Mahavira. Những khái niệm như Luân Hồi, Nghiệp, Niết Bàn...đã có trong Ấn Độ Giáo; những khái niệm như A Hàm, Tứ Chúng, Mâu Ni hay dùng con sư tử làm biểu tượng...cũng có trong Kỳ Na Giáo.
Khi Phật Giáo về Việt Nam thì mình cũng thế, không đủ tài liệu so sánh các tôn giáo Ấn Độ nên sự hiểu biết hạn chế.
Phật Học một số quốc gia kể trên thì khi học sau Đại học phải đi chuyên sâu về một lĩnh vực rất nhỏ nào đó. Hơn nữa, có nhiều nghiên cứu về các tôn giáo Ấn Độ, cũng như nhiều tôn giáo khác trên thế giới, nên có nhiều tài liệu cho chúng ta đối chiếu, so sánh.
Đây là ví dụ thôi để gợi ý là nghiên cứu Phật Học thời này tốt hơn thời xưa nhiều lắm. Mình sẽ viết tiếp về vấn đề này.
Read More »

Thành phần thứ ba


Trong chiến tranh Việt Nam có hai phe: miền bắc và miền nam. Mỗi phe đều có đồng minh (lãnh đạo thì đúng hơn?) là những ông to với vũ khí hạt nhân khủng khiếp.
Còn một bên nữa gọi là thành phần thứ ba (third force hay third way). Nhóm này gồm một số trí thức, nhà nhân bản, có cả thiền sư...Nguyện vọng của thành phần thứ 3 này là không theo phe miền bắc, không theo phe miền nam, mà muốn hai khối kia rút ảnh hưởng về để dân Việt tự quyết định vận mạng. Đại khái là như vậy.
Tào Tháo cũng bảo mình Minh Quân mà Tôn Quyền cũng cho mình Chính Nghĩa. Trong khi đó, Lưu Bị thì bảo mình Nhân Đức. Bên nào cũng cho con đường của mình là đúng, là đạo đức chói ngời đồng thời chỉ ra những sai lầm của hai bên còn lại, ác quỷ hoá bên kia.
Vì thành phần thứ ba này không có sức mạnh bên ngoài nào đủ lớn hậu thuẫn, trong khi chính trong nội bộ chưa chắc đã một lòng, nên không thành công là chuyện hiển nhiên. Nếu lịch sử lặp lại thêm 10 lần thì cũng thất bại cả 10 thôi vì đơn giản hai khối kia đều có bom hạt nhân, quân sự khủng và kinh tế hùng hậu. Có một quy luật trên trường thế giới là kẻ mạnh sẽ làm tất cả mọi thứ nó có thể trong khi kẻ yếu phải chịu đựng tất cả những gì nó phải chịu. Khi con cọp và sư tử đấu nhau thì con nai, không có móng vuốt nên tự xưng chính nghĩa với lý thuyết không móng vuốt, muốn cả hai đừng giành giang sơn cũng chả thành công đâu. Con nai chưa bị xé xác là may lắm rồi.
Điều muốn nói ở đây là thành phần thứ ba này, và cả thế hệ kế tiếp của thành phần này, đều bị hai bên kia nghĩ nhóm ấy thuộc bên kia. Chính sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ hai bên đều làm cho sự nhận thức về thực tại trở nên khó khăn. Mỗi bên bị bóp méo thực tại cho có lợi về phía họ nên phe miền bắc thì nghĩ cá nhân/tổ chức ấy giống nhóm miền nam quá trong khi đó thì phe miền nam nghĩ nhóm ấy giống phe miền bắc quá. Cụ thể, khi một cá nhân thuộc thành phần thứ 3 này nói chuyện với nhóm người Hà Nội thì có thể nhóm Hà Nội này bảo gã này sau có vẻ chống Cộng hăng thế. Trong khi đó, nếu gã thuộc thành phần thứ 3 này nói với một nhóm người ở Santa Ana, nam Cali, thì nhóm này có thể bảo thằng cha này chắc là Cộng đây.

Read More »

Đông Phương Học Thực Chất và Hướng Đi



Lâm Nguyệt Th
Tp chí Human
Architecture
(kiến
trúc con ng
ười)
ở Hoa Kvừa ra
m
ột số đặc biệt
v
ề ttưởng tương
t
ức (Interbeing)
và
đạo Bt đi vào
cu
ộc đời (Engaged
Buddhism) c
a
Thi
ền sNhất
H
nh, với tiêu đề
Hình Tượng Xã
H
ội ca Thích
Nh
ất Hnh,
kh
o luận và phê
bình v
ề đạo Bt đi vào cuộc đời (Thích Nhất Hnh’s Sociological Imagination, Essays and Commentaries on Engaged Buddhism). Số báo đặc biệt này được ra mắt vào mùa H2008, Bộ VI, số 3. Chbút ca tờ báo là M.H.Tamdgidi, Giáo sxã hội hc ti Trường Đại hc University of Massachusetts ở Boston, Ma. Mở đầu số báo có bài giới thiệu ca Giáo sWinston Langley, quyền Viện trưởng Viện Đại Hc Boston, Giáo sChính trhc.
Ttưởng chỉ đạo ca số đặc biệt này có liên quan mật thiết với khoa Đông Phương Hc (Orientalism). Có những người không tin là Tây phương có khnng hiểu được Đông phương, dù đã có hn 200 nm Đông Phương Hc. Hnghngười Tây phương có cái nhìn quá nhnguyên và có sẵn cái óc kth. Vì vậy, hai trm nm nghiên cứu về Đông phương cng vẫn không giúp cho người Tây phương cởi bỏ được cái thành kiến là Đông phương thấp kém hn (inferior) Tây phương về mi phương diện. Edward Said, Giáo sư Đại Hc Columbia ở New York, nm 1978 (1) có viết một cuốn sách với tựa đề Đông Phương Hc (Orientalism), và cuốn sách này đã gây sóng gió trong giới ttưởng và triết hc phương Tây. Ông viết: “khoa Đông Phương Hc đại khái xuất hiện vào cuối thế kthứ 18... nhmột thể cách Tây phương nhằm thay đổi cấu trúc ca Đông phương và thống trị Đông phương” (Orientalism emerged roughly in the late 18th century... as a Western Style for dominating, restructuring and having authority over Orient). Bị ảnh hưởng ca Đông Phương Hc, những nhà Xã hội hc nổi tiếng nhKarl Marx và Max Weber cng đã có một cái nhìn méo mó về Đông phương. Khi nói đến cách thức sn xuất ca Châu Á, (the Asiatic Modes of Prodution) Marx cng đã bị ảnh hưởng bởi cái nhìn không thấu triệt ca Đông Phương Hc và đã phát biểu theo những giả định ca Đông Phương Hc.
Ông nói rằng cách thức sn xuất ở Á Châu bchi phối bởi những con người không có tự do cá nhân, những con người hoàn toàn bràng buộc với gia đình và xã hội; rằng con người cá nhân mà không được làm cá nhân, chcó thể được tìm thấy trong xã hội Trung Quốc thời xa (the non-individuated individuel was to be found in Ancient China), và do cách thức sn xuất cng nhdo những con người nhthế mà “hầu nhlà không thể có chội nào thay đổi được xã hội trong cách thức sn xuất ấy” (there was very little social change of anykind in societies with an Asiatic Mode of Production). Phương thức sn xuất ca Đông phương to ra những chế độ trung ương tập quyền nghiêm khắc, những vbo chúa tự xng mình là con trời, thiên tử, có quyền hn tuyệt đối trên người dân. Giáo sTamdgiti viết: với cái thấy duy vật, trần tc, vô thần, chống tôn giáo và với nh hưởng ca Đông Phương Hc, cái nhìn Mác - xít về Đông phương và về Châu Á không cho người ta thấy được những giá trthành tựu trí thức ca nền Vn Hóa phương Đông được ẩn chứa tiềm tàng trong hình thức đạo hc ca nền vn hóa này.
So sánh hai nền vn hóa, hcó khuynh hướng cho rằng Đông phương thì gii chu đựng khổ hnh còn Tây phương thì biết tranh đấu để chiến thắng, Đông phương thì tìm cách xoa du khổ đau và xa lánh cuộc đời, còn Tây phương thì sử dng trí tuệ để làm chvà thay đổi thế giới. Max Weber trong khi nghiên cứu các đạo Tin Lành, Do Thái và Phật giáo, đã bị ảnh hưởng lề thói tduy ca Đông Phương Hc khá nhiều, cho rằng có một khác biệt bn thể (ontological difference) giữa các nền kinh tế Đông phương và Tây Phương. Đạo Bt có khuynh hướng thụ động, bất cần, muốn rút ra, trong khi lề lối suy tca Tây phương là thực tế, hữu hiệu và nng động. Ví dtrong khi Tây phương cho sự chấp nhận chu đựng là yếu kém và thụ động thì đạo Bt li cho đó là một thái độ đại hùng, vô úy, chcó thể đạt được với quán chiếu sâu sắc. Khi gặp khó khn với đoàn thể hoặc với nhà cầm quyền thì người theo đạo Bt có khuynh hướng “rút lui” để thiền quán và tìm sự an i. Thiền quán chlà thụ động và chấp nhận. Giáo sLangley, Viện trưởng Viện Đại Hc Massachusetts, trong bài viết Thích Nhất Hnh, người ca Châu Á (Asia’s Thích Nhất Hnh) đã viết: Á Châu có những tuệ giác triết hc, đạo đức, xã hội, kinh tế và ý thức hệ rất thực tiễn có thể gii đáp được cho những vấn đề lớn lao ca xã hội mà con người đang phi đương đầu, những tuệ giác ấy được dựa trên nguyên tắc tương quan tương duyên. Tu thân cng quan trng nhtề gia, trquốc và bình thiên h. Ta không có hy vng thay đổi và chuyển hóa những điều kiện đang đe da và làm cho xuống cấp con người cng nhmôi trường ca con người, nếu ta không biết tự tu, tu với nhau, và trong tinh thần tương tức. Giáo scng nói rằng Á Châu từ nay không cần bận tâm về những cái mgiả định mà Tây phương đđội vào cho mình lâu nay
49
(nhthụ động, tiêu cực...) nữa mà có thể với những thành quả đạt được trong lnh vực gii phóng, đi vào ngay trong lãnh thổ ca những người đã dán danh hiệu cho mình lâu nay, để giúp lãnh đạo cho việc chữa trtập thể. Những người nhMahatma Gandhi và Thích Nhất Hnh không hề có mặc cm, họ đã chứng tmột cách hùng hồn là ttưởng đạo hc Đông phương có khnng gii phóng và thay đổi xã hội. Và ta có thể nói tới những phương thức gii phóng ca Á Châu (the Asiatic Modes of Liberation...)
Tập san được chia làm bốn phần, bắt đầu bằng bài giới thiệu ca Giáo sViện trưởng. Phần đầu có vài bài pháp thoi mới, vài lá thvà một bài thca Thích Nhất Hnh với chủ đề đạo Bt đi vào cuộc đời - có liên hệ tới các vấn đề chiến tranh, xung đột, môi trường, knghệ thực phẩm, tiêu thvà lch sử phong trào đạo Bt vào đời. Phần thứ hai gồm những bài nghiên cứu và áp dng quan điểm đạo Bt nhập thế ca Thích Nhất Hnh vào khoa hc xã hội, khai thác sự trùng hợp giữa ttưởng ca Thầy với triết lý thực dng (Pragmatism) ca William James, với ttưởng môi trường sâu (Deep Ecology) ca Arne Naess, với triết lý xã hội, hình tượng xã hội và phân tích ý thức hệ. Phần thứ ba là by bài nghiên cứu áp dng ttưởng Thích Nhất Hnh trong các trường hợp nhgii quyết xung đột chính trquốc tế, đem chánh niệm và thiền tập vào hc đường, đem chánh niệm và ý thức tâm linh vào lãnh vực giữ trật tự an ninh trong các thành phố ở Hoa K, áp dng chánh niệm và thiền quán để trliệu trong trường hợp những người bám nh vì chiến tranh, đem ý niệm đạo Bt vào đời vào lý thuyết kinh tế và guồng máy kinh tế, tduy về đạo Bt vào đời để tìm ra những phương thuật hữu hiệu đối phó được với cuộc khng hong sinh môi và hâm nóng địa cầu, và sau hết là dùng ttưởng đạo Bt vào đời để đối trvới những thương đau, mất mát và bất hnh trong gia đình. Phần thứ tư đăng một bài tiêu biểu cho lối tduy Tây phương không hiểu thấu được cái tinh hoa ca tinh thần đạo hc Đông phương do một vgiáo stuy đang ging dy về ttưởng Thích Nhất Hnh nhng không thực sự nắm được ttưởng Thích Nhất Hnh và tiếp theo là một bài ca scô Chân Tùng Nghiêm soi sáng li cho bài nói trên.
Sau đây xin mời các bn đọc bài giới thiệu tập san Human Architecture ca Giáo sLangley
Thích Nhất Hnh, con người ca Châu Á
(Những phương thức Á Đông nhằm gii phóng con người và xã hội)
Ti Tây phương và cả ở những vùng khác trên thế giới đã chu nh hưởng nặng nề ca vn hóa Tây phương, danh từ Đông phương thường mang một ý ngha tiêu cực và thua kém. Tây phương đã nhìn và đã gi lc địa Châu Á và người Châu Á với tiêu chuẩn ca nền nhân
bn Tây phương, cho vn hóa Đông phương là thấp kém và con người Đông phương thiếu tự do.
Cố hc giEdward Said, tác gicuốn Đông Phương Hc, đã nói lên với rất nhiều can đảm rằng những ý niệm và từ ngữ mà Tây phương sử dng để miêu tả Đông phương chứa đựng nhiều mâu thuẫn, úp mở và lúng túng. Ông đã dùng nhiều nm tháng ca đời mình để vch trần bộ mặt ca cái gi là Đông Phương Hc, đđưa ra những đề tài phn bác đường lối nghiên cứu ấy và đã to rất nhiều không gian và chội để chúng ta có thể vch li hướng đi cho một nền Đông Phương Hc đứng đắn.
Tuy cuốn sách đđạt tới những thành tựu lớn lao, nhng tác givẫn cha thiết lập ra được những tiêu chuẩn để các dân tộc trên thế giới có thể to dựng một tương lai chung. Nhng nói về những phương thức ca Á Đông nhằm gii phóng con người và xã hội (The Asiatic Modes of Liberation), thì ta đã có thể bắt đầu bằng những quy tắc tìm thấy trong đạo Bt nhập thế (Engaged Buddhism).
Tôi hiểu gii phóng ở đây có ngha là những hành động và những quá trình gii phóng trong lnh vực sự sống và hành xử cá nhân, ý ngha cuộc đời, tuệ giác và liên hệ giữa con người và con người. Á Châu có những nguồn tuệ giác thực tiễn trong các lnh vực triết hc, đạo hc, xã hội, kinh tế và ý thức hệ, có khnng đối phó và gii quyết được những vấn đề lớn nhất ca nhân loi hiện nay. Những tuệ giác ấy đã dựa trên nền tng tương quan tương duyên giữa vn vật. Những đạo lý tu tập để chuyển hóa tự thân cng quan trng ngang bằng những nguyên tắc nhằm gii quyết các vấn đề triết hc và kinh tế. Công cuộc gii phóng xã hội không thể tách rời ra khi công cuộc gii phóng bn thân con người. Những nguyên lý nhtương tức, tương dung, tương duyên, vô ngã, cái ta riêng biệt và cái ta cộng đồng... không phi là chỉ để gii thích về vtrvn hữu mà còn là những phép tu tập chuyển hóa và hoàn thiện bn thân. Chúng cng là những hành động rất cần thiết cho sự hoàn thành bổn phận, tranh đấu cho nhân quyền và hoàn tất trách vca mình đối với xã hội.
Những phương thức Á Châu nhằm gii phóng con người và xã hội” còn nói lên rằng ta không thể nào thay đổi và chuyển hóa tình trng đang đe da và làm xuống cấp con người và trái đất nếu ta không biết cách tu tập để chuyển hóa bn thân, chuyển hóa cộng đồng và chuyển hóa mối liên hệ giữa con người và con người. Nó cng nói lên rằng Đông phương chẳng cần phi chua chát, cay cú hay bận tâm khi nghe Tây phương dùng những danh từ và khái niệm có tính cách chê bai, bóp méo và coi thường Đông Phương, mà trái li, với những thành quả đđạt được, Đông phương có thể đi ngay vào trong mnh đất Tây phương và giúp cho Tây phương chuyển
50
hóa và gii phóng. Sự có mặt lch sử ca Mahatma Gandhi là một ví d, không thể nào lầm lẫn được. Và thầy Nhất Hnh nữa, khi thầy dy chúng ta: trong khi đi tìm phương cách cứu vãn địa cầu, cnn nhân cng nhkgây ra tai nn, không ai có chội sống còn nếu còn có ý muốn loi trừ nhau.
Những bài kho cứu trong tập san này đều có chđi về hướng chấp nhận nhau, ôm lấy nhau, gn lc tâm ý mình và thực hiện con người toàn vn. Tập san này đã thành công trong việc vinh danh cuộc đời và sự nghiệp ging dy ca thầy Nhất Hnh, trong đó có chtrương đem đạo Bt đi vào cuộc đời.􏰀
_______________________
Tác gi
Winston Langley là giáo schính Chính trhc ti trường Đại Hc Massasuchetts. Ông cng dy về nhiều môn khác nhLuật Lệ Quốc Tế và Nhân Quyền. Ông hiện là Quyền Viện Trưởng Viện Đại Hc Massasuchetts. Trong các tác phẩm đã ra đời ca ông, ta có thể kể: Women Rights in the US: A Documentary History và Human Rights: The Major Global Instruments. _______________________
(1) Orientalism, Edward Said, Vintage Book, 1978, ISBN 0-394-74067-X
Read More »